Ngày xưa khi chưa có trời và đất, bóng tối bao trùm vực thẳm, Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước.
Thiên Chúa phán: "Hãy có ánh sáng". Liền có như vậy. Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối. Ánh sáng là ban ngày, và bóng tối là ban đêm. Đó là ngày thứ nhất.
Thiên Chúa lại phán: "Phải có bầu trời ở phía trên để chia với nước ở phía dưới. Nước dưới bầu trời phải tụ lại một nơi là biển, còn chỗ cạn nhô ra là đất liền". Tức thì liền có như vậy. Đó là ngày thứ hai.
Thiên Chúa lại phán: "Đất phải mọc lên nhiều cây cối xanh tươi, nở hoa, kết trái tuỳ theo loại, và mang hạt giống". Tức thì liền có như vậy. Đó là ngày thứ ba.
Thiên Chúa lại phán: "Phải có vầng ánh sáng trên trời, phân biệt ngày và đêm". Thiên Chúa cho có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng và muôn ngàn vì sao, tinh tú chiếu sáng ban đêm. Tức thì iền có như vậy. Đó là ngày thứ tư.
Thiên Chúa lại phán: "Nước phải sinh ra nhiều loài tôm cá, và trên trời phải có nhiều chim cò bay lượn". Chúa chúc phúc cho chúng sinh sản thật nhiều. Tức thì iền có như vậy. Đó là ngày thứ năm.
Thiên Chúa lại phán: "Đất phải sinh ra nhiều thú vật, gia súc, các loài bò sát và côn trùng". Liền có như vậy. Thấy tốt đẹp và Thiên Chúa phán: " Ta hãy làm ra con người có nam, có nữ giống hình ảnh của Ta, để họ làm chủ mọi thứ trên mặt đất". Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho họ sinh sản ra nhiều trên mặt đất. Đó là ngày thứ sáu.
Sau khi hoàn thành việc tạo dựng trời đất. Ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày đó.
Câu chuyện thứ 02
CON NGƯỜI ĐẦU TIÊN TRÊN MẶT ĐẤT
Sách Sáng Thế chương 2, câu 5-25
Ngày Thiên Chúa dựng nên trời và đất, Thiên Chúa cho một dòng nước dưới đất trào lên tưới khắp địa cầu. Thiên Chúa lấy đất nặn ra con người giống hình ảnh Chúa, vì Chúa muốn chia sẻ tình thương với con người. Chúa thổi hơi vào lỗ mũi và con người liền trở nên sinh vật có sự sống. Con người bắt đầu đi đứng, hít thở và trái tim cũng bắt đầu đập. Con người đầu tiên đó là Adong.
Thiên Chúa trồng một vườn cây Êđen hay còn gọi là vườn điạ đàng. Thiên Chúa cho đủ mọi thứ cây mọc lên, nở hoa xinh đẹp và trái ăn thì rất ngon. Ở giữa vườn, Chúa cho mọc lên cây trường sinh, là cây biết điều tốt, điều xấu. Một con sông từ Êđen chảy ra chia làm bốn nhánh tưới khắp vườn. Chúa mang con người đặt vào vườn địa đàng để sinh sống và canh giữ vườn.
Chúa truyền cho con người được ăn hết mọi thứ cây trong vườn, cả ngàn ngàn cây khác nhau, nhưng chỉ có trái cây ở giữa vườn là cây biết điều tốt điều xấu thì Thiên Chúa nói con người không được ăn kẻo sẽ phải chết.
Thấy con người sống một mình cô đơn, Chúa làm ra nhiều thú vật, chim trời dẫn đến vây quanh con người. Hễ con người gọi tên là gì, thì đó là tên của con thú đó. Thế nhưng, con người vẫn không tìm được người bạn tương xứng với mình. Chúa biết điều đó, và Chúa đợi lúc Adong ngủ say, Chúa rút cái xương sườn của Adong ra. Chúa lấy xương sường đó làm nên người đàn bà xinh đẹp. Lúc Adong thức dậy, Chúa dẫn người đàn bà tới gặp Adong. Adong mừng lắm vì có người bạn đồng hành. Adong gọi người đàn bà là Evà. Hai người sống hạnh phúc với nhau.
Câu chuyện thứ 03
LỰA CHỌN SAI LẦM
Sách Sáng Thế chương 3, câu 1-20
Rắn là loài dối trá nhất trong vườn. Một hôm con rắn nói với Evà: "Có phải Thiên Chúa cấm ông bà không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?". Evà đáp: "Đúng thế, hết mọi cây trong vườn thì được ăn, ngoại trừ có cây ở giữa vườn thôi. Chúa bảo không được ăn kẻo phải chết".
Rắn liền cám dỗ Evà: "Chẳng chết chóc gì đâu bà ơi, nếu Chúa biết ngày nào bà ăn trái đó, bà sẽ là một thần linh khôn ngoan biết điều tốt, điều xấu".
Evà nhìn trái cây thì thấy đẹp mắt và ngon. Bà liền đưa tay hái ăn và đưa cho chồng cùng ăn. Khi họ vừa ăn thì mắt họ mở ra, và họ biết điều tốt điều xấu đúng như lời Thiên Chúa phán. Họ mắc cở chạy tìm lá che thân vì thấy mình trần truồng. Họ đã phạm tội không vâng lời Thiên Chúa.
Chiều đến, Thiên Chúa đi trong vườn, Ngài gọi Adong từ xa: "Adong, ngươi ở đâu?". Adong thưa: "Con nghe tiếng Ngài, nhưng vì trần truồng nên con lẩn trốn". Thiên Chúa hỏi: "Có phải ngươi đã ăn trái Ta cấm không?". Adong đáp: "Evà đã đưa trái đó cho con và con đã ăn". Chúa hỏi Evà: "Ngươi đã làm gì thế?" Evà đổ lỗi cho con rắn: "Con rắn đã lừa dối con, nên con đã ăn".
Chúa nguyền rủa con rắn: "Bởi vì mi đã lừa dối người ta, nên mi sẽ phải bò bằng bụng suốt đời mi". Rồi Chúa nói với Avà: "Vì các ngươi không vâng lời Ta, nên ngươi sẽ phải mang nặng, khi sinh đẻ thì đau đớn". Và Chúa nói với Adong: "Ngươi sẽ phải làm việc vất vả mới có bánh để ăn, vì đất sẽ trổ sinh gai góc".
Thiên Chúa làm cho họ những chiếc áo che thân và mặc cho họ. Ngài mang họ ra khỏi vườn, và họ bắt đầu một cuộc sống vất vả.
Câu chuyện thứ 04
HAI ANH EM CA-IN VÀ A-BEN
Sách Sáng Thế chương 4, câu 1-8
Ông Adong và Bà Evà sinh được người con thứ nhất là Ca-in. Bà Evà vui mừng nói: "Nhờ Thiên Chúa, tôi đã có được một người con nối dòng".
Sau đó, bà sinh ra A-ben, em của Ca-in. A-ben thích ra đồng chăn chiên và súc vật, A-ben bắt những con chiên đầu lòng làm thịt cùng với mỡ của chúng lên Thiên Chúa. Còn Ca-in làm nghề cầy cấy và canh tác đất đai. Ca-in lấy những hoa trái của đất đai làm lễ vật dâng lên Thiên Chúa.
Thiên Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, vì ông dâng lên Thiên Chúa với lòng thành kính, nhưng Ca-in và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt.
Thiên Chúa phán với Ca-in: "Tại sao ngươi giận dữ và sa sầm nét mặt? Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang rình rập ngoài tâm hồn, nó thèm muốn ngươi; nhưng ngươi phải chống lại nó."
Ca-in nói với em là A-ben: "Chúng mình ra ngoài đồng đi! " Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông đến giết A-ben, em mình. Thiên Chúa phán với Ca-in: "A-ben em ngươi đâu rồi? " Ca-in thưa: "Con không biết. Con là người trông giữ em con hay sao? " Thiên Chúa phán: "Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất." Ông Ca-in đi xa khuất mặt Thiên Chúa về phía đông Ê-đen.
Câu chuyện thứ 05
LỤT ĐẠI HỒNG THUỶ THỜI ÔNG NÔ-Ê
Sách Sáng Thế chương 6 và 7
Con người sống hư hỏng, sống gian ác và làm điều dữ trên mặt đất. Thiên Chúa buồn rầu và hối hận vì đã làm ra họ bởi họ sống trái mắt Thiên Chúa.
Thiên Chúa phán: "Ta sẽ xóa bỏ con người mà Ta đã sáng tạo cùng với mọi thú vật trên trời dưới đất". Nhưng ông Nô-ê là người sống công chính và đẹp lòng Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn cứu sống ông và gia đình.
Ông Nô-ê có ba người con là Sêm, Kham và Gia-Phét. Thiên Chúa phán với ông Nô-ê: "Ta đã quyết định số phận của con người trên mặt đất. Ta sẽ xóa bỏ chúng vì họ sống gian ác. Ngươi hãy làm cho mình một chiếc tàu bằng gỗ: chiều dài 150 thước, chiều rộng 25 thước, chiều cao 15 thước. Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu. Ngươi sẽ làm tàu có nhiều tầng: tầng dưới, tầng giữa rồi tầng trên.
Ta sắp cho mưa lớn đổ xuống và nước sẽ dâng cao trên mặt đất. Nhưng Ta sẽ lập giao ước của Ta với ngươi. Ngươi, vợ ngươi cùng với các con trai, vợ của các con trai ngươi hãy vào tàu .
Trong các loài thú vật, ngươi sẽ đưa vào tàu mỗi loại một đôi. Mỗi đôi là một con đực và một con cái. Trong mỗi loại chim, mỗi loại gia súc, mỗi loại bò dưới đất, mỗi loại một đôi mang lên tàu cho chúng sống với ngươi.
Hãy lấy tích trữ thức ăn cho gia đình mình và cho các thú vật. Đó sẽ là lương thực nuôi sống gia đình ngươi và các thú vật trên tàu." Ông Nô-ê đã làm đúng như lời Thiên Chúa đã truyền cho ông.
Thiên Chúa phán với ông Nô-ê: "Ngươi và cả nhà ngươi hãy vào tàu, vì Ta chỉ thấy có ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này. Bảy ngày nữa Ta sẽ cho mưa xuống trên mặt đất trong vòng 40 ngày 40 đêm, và Ta sẽ xoá khỏi mặt đất mọi loài Ta đã làm ra."
Ông Nô-ê làm đúng như Thiên Chúa đã truyền. Ông Nô-ê được 600 tuổi khi lụt hồng thuỷ xảy đến trên mặt đất. Ông Nô-ê vào trong tàu và Thiên Chúa ở ngoài đóng cửa tàu lại.
Lụt hồng thủy kéo dài 40 ngày trên mặt đất. Nước dâng lên cao trên mặt đất, và tàu lênh đênh trên mặt nước. Mọi ngọn núi cao ở khắp nơi đều bị nước phủ lấp. Ông Nô-ê, gia đình ông và những gì ở trong tàu với ông đều sống sót.
Hết 40 ngày, ông Nô-ê mở cửa sổ trên tàu, rồi thả bồ câu ra để xem nước đã cạn khô hay chưa. Vào buổi chiều, con bồ câu bay trở về với ông, và kìa trong mỏ nó có một cành ô-liu xanh tươi! Ông Nô-ê biết là nước đã khô cạn trên mặt đất.
Thiên Chúa phán với ông Nô-ê rằng: "Ngươi hãy ra khỏi tàu cùng với vợ ngươi, các con trai ngươi và vợ của các con trai ngươi. Mọi loài vật ở với ngươi, tất cả chim chóc, gia súc, mọi sinh vật bò dưới đất, ngươi hãy đưa chúng ra với ngươi; chúng phải sinh sôi nảy nở thật nhiều trên mặt đất."
Ông Nô-ê làm một bàn thờ để kính Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã cứu thoát ông. Ông bắt một số các gia súc thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ. Hương thơm lễ vật làm Thiên Chúa hài lòng và Thiên Chúa tự nhủ: "Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa".
Câu chuyện thứ 06
THÁP BA-BEN
Sách Sáng Thế chương 11, câu 1-8
Ngày xưa, mọi người đều nói chung một thứ tiếng, và họ hiểu tiếng nói của nhau. Trong khi con người đi về phía Đông, họ thấy một đồng bằng xanh tốt ở miền Sin-a và họ định cư tại đó.
Họ họp nhau lại và nói: "Chúng ta hãy dùng đất đúc và lấy lửa mà nung thành gạch để xây cất nhà cửa". Họ dùng gạch thay vì đá và lấy nhựa đen làm hồ.
Họ nói: "Tại sao Chúng ta không xây cho mình một thành phố lớn và một tháp có đỉnh cao chọc trời, đụng tới các vì sao? Chúng ta phải làm cho danh chúng ta lẫy lừng, và để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất."
Thiên Chúa từ trên cao xem thành phố và tháp canh mà con cái loài người đang xây. Thiên Chúa phán: "Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã làm như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. Ta sẽ xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không hiểu nhau được nữa."
Thế là Thiên Chúa cho họ nói nhiều thứ tiếng và phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất, và họ thôi không xây tháp canh nữa. Người ta đặt tên cho thành phố ấy là Ba-ben, vì tại đó, Thiên Chúa đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và Thiên Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất.
Câu chuyện thứ 07
ÔNG ÁP-BRA-HAM VÀ BÀ XA-RA
Sách Sáng Thế chương 12,13
Ông Áp-ram được 75 tuổi khi đang ở miền đất Kha-ran nơi nhà cha ông thì Thiên Chúa nói với Áp-ram: "Hãy rời bỏ quê hương xứ sở, và nhà cha ngươi, mà đi tới miền đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi trở thành một dân tộc lớn, và Ta sẽ chúc phúc cho ngươi. Nhờ ngươi mà mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."
Ông Áp-ram tuy già nua, yếu sức nhưng ông tin vào lời Thiên Chúa và ra đi như Thiên Chúa đã phán với ông. Ông và vợ là bà Xa-ra chưa có người con nào. Ông Áp-ram đem theo vợ, cháu là ông Lót, và tài sản đi tới miền đất mới. Họ đi về phía Ca-na-an cho đến nơi gọi là Si-khem thì dừng chân ở đó.
Thiên Chúa hiện ra với ông Áp-ram và phán: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi." Tại đây, ông dựng một bàn thờ để kính Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã hiện ra với ông.
Ở Ai-cập xảy ra nạn đói, Ông Áp-ram từ Ai-cập đi lên miền Ne-ghép, cùng với vợ và tất cả những gì ông có; ông Lót cũng đi với ông. Ông Áp-ram trở nên rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc. Ông Lót, cháu ông Áp-ram, cũng có nhiều chiên bò. Đất ấy không đủ chỗ cho họ ở chung và họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung với nhau được. Ông Áp-ram nói với ông Lót: chúng ta là bác cháu với nhau nhưng chúng ta không thể chung sống với nhau được nữa. Vậy nếu cháu đi về bên trái thì bác sẽ đi về bên phải; nếu cháu đi về bên phải thì bác sẽ đi về bên trái." Thế rồi họ chia tay nhau.
Thiên Chúa phán với ông Áp-ram: "Hãy ngước mắt lên, từ chỗ ngươi đang đứng, nhìn về mọi hướng. Tất cả miền đất ngươi đang thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển. Hãy đi khắp miền đất này, vì Ta sẽ ban nó cho ngươi."
Câu chuyện thứ 08
LỜI HỨA VÀ I-XA-ÁC SINH RA ĐỜI
Sách Sáng Thế chương 15,18,21
Thiên Chúa phán với ông Áp-ram trong một thị kiến rằng: "Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là Đấng che chở ngươi; Ta sẽ thưởng rất lớn cho lòng tin của ngươi." Ông Áp-ram thưa: "Chúa sẽ thưởng cho con cái gì nào? Con ra đi như lời Chúa truyền nhưng không có một người con để nối dòng."
Thiên Chúa phán với ông rằng: "Đừng lo, ngươi sẽ có một người con nối dòng của chính người." Rồi Thiên Chúa đưa tay chỉ lên trời phán: "Hãy ngước mắt nhìn lên trời, và đếm các vì sao xem ngươi có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ đông như thế đó!" Ông tin Thiên Chúa, vì thế, ông là người công chính.
Khi ông Áp-ram được 99 tuổi, Thiên Chúa phán với ông rằng: "Đây là giao ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của các dân tộc. Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha các dân tộc. Ta sẽ cho ngươi có nhiều con cháu. Ta sẽ ban cho ngươi và con cháu ngươi sau này miền đất Ca-na-an làm gia nghiệp và Ta sẽ là Thiên Chúa của con cháu ngươi."
Thiên Chúa lại phán với ông Áp-ra-ham: "Đừng gọi vợ ngươi là Xa-rai nữa, nhưng gọi là Xa-ra. Vì Ta sẽ chúc phúc cho nó, Ta sẽ cho nó sinh cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc phúc cho đứa bé, nó sẽ trở thành những dân tộc; vua chúa các dân sẽ phát xuất từ nó".
Ông Áp-ra-ham cúi rạp xuống cười thầm và nghĩ bụng: "Tôi già 100 tuổi rồi mà có con được sao? Còn Xa-ra đã 90 tuổi mà sinh con được sao?" Nhưng Thiên Chúa phán: "Chính Xa-ra vào ngày này sang năm sẽ sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác. Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn"
Thiên Chúa đoái nhìn và viếng thăm bà Xa-ra và cho bà sinh con như Người đã hứa. Bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai là I-xa-ác, Ông Áp-ra-ham lúc đó được 100 tuổi. Bà Xa-ra nói: "Thiên Chúa đã làm cho tôi cười; tất cả những ai nghe biết chuyện này cũng sẽ cười."
Câu chuyện thứ 09
ÔNG GIUSE BỊ BÁN QUA AI-CẬP
Sách Sáng Thế chương 37
Gia-cóp có 12 người con trai. Giu-se được 17 tuổi thì đi chăn chiên với các anh mình. Ông Ít-ra-en yêu Giu-se hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, ông may cho cậu một áo choàng dài tay. Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn mình, thì ghét cậu và không ăn nói tử tế với cậu.
Một lần kia Giu-se làm mơ và kể lại giấc mơ cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. Cậu kể cho họ nghe về giấc mơ: "Em thấy chúng ta đang bó những bó lúa ngoài đồng, bó lúa của em vươn dậy, đứng thẳng lên, còn những bó lúa của các anh bao quanh bó lúa của em, và sụp xuống lạy bó lúa của em." Các anh bảo cậu: "Mày muốn làm vua cai trị chúng tao sao đây?" Và họ càng ghét cậu thêm.
Một lần khác cậu lại làm mơ và kể cho các anh. Cậu nói: "Em lại làm mơ. Em thấy mặt trời, mặt trăng và 11 ngôi sao đang sụp xuống lạy em." Cậu kể lại cho cha và các anh nghe, nhưng cha mắng cậu và nói: "Giấc mơ mày đã thấy là gì? Không lẽ Tao, mẹ mày và các anh mày lại phải sụp xuống đất lạy mày sao?" Các anh càng ghen với cậu, còn cha cậu thì nhớ điều ấy.
Một hôm, Ông Ít-ra-en gọi bảo Giu-se: "Các anh con đang chăn chiên dê ở đồng Si-khem. Con hãy đi xem các anh con và chiên dê có được bình yên không, rồi hãy trở về báo cho cha biết."
Giu-se ra đi và tìm thấy các anh mình đang giữ chiên ở Đô-than. Thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần thì họ lập mưu giết chết cậu. Họ bảo nhau: "Thằng vua làm mơ đang đến kia. Chúng ta hãy giết và ném nó xuống một cái giếng. Chúng ta sẽ nói với cha là thú dữ đã ăn thịt nó. Để xem giấc mơ của nó đi tới đâu!"
Nghe thấy thế, Rưu-vên tìm cách cứu Giuse; cậu nói: "Đừng đụng tới mạng sống nó." Rưu-vên bảo họ: "Đừng đổ máu em chúng ta. Cứ ném nó xuống cái giếng trong sa mạc, nhưng đừng giết hại nó." Cậu có ý cứu em khỏi tay họ và đưa về cho cha. Khi Giu-se đến chỗ các anh, thì họ lột chiếc áo chùng dài tay cậu đang mặc. Họ túm lấy cậu và ném xuống cái giếng; giếng đó cạn, không có nước. Rồi họ ngồi xuống ăn cơm.
Giu-đa nói với các anh em: "Ta giết Giuse và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? Thôi, ta hãy bán nó cho người Ít-ma-ên, vì nó là em ta." Các anh em cùng đồng ý.
Những người buôn Ma-đi-an đi qua đó. Họ kéo Giu-se lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho người Ít-ma-ên 20 đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập. Khi Rưu-vên trở lại giếng thì thấy Giu-se không còn ở dưới giếng nữa. Cậu liền xé áo mình ra hối hận. Cậu đến nói với các em: "Thằng bé không còn nữa! Còn tôi, tôi biết đi đâu bây giờ!"
Họ lấy áo choàng của Giu-se, giết một con dê đực, rồi nhúng áo chùng vào máu. Họ gửi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói: "Chúng con đã thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không." Ông nhận ra cái áo và kêu lên: "Áo chùng của Giuse đây! Thú rừng đã xé xác ăn thịt nó rồi! " Ông Gia-cóp xé áo mình ra, khóc thương cậu. Tất cả các con trai con gái ông đến an ủi ông, nhưng ông không chịu cho người ta an ủi.
Người Ma-đi-an đem bán Giuse cho ông Pô-ti-pha là viên chỉ huy của vua Ai-cập là Pha-ra-ô.
Câu chuyện thứ 10
GIUSE GIẢI THÍCH GIẤC MƠ CHO VUA PHA-RA-Ô
Sách Sáng Thế chương 40
Vua Pha-ra-ô giam hai vị quan thái giám làm trái ý vua trong nhà tù nơi Giu-se đang bị giam giữ. Viên cai tù đặt Giu-se ở với họ và phục vụ họ. Vào một đêm, cả hai quan tướng đang bị giam đều làm mơ; mỗi người có giấc mơ riêng, và mỗi giấc làm mơ có một ý nghĩa khác.
Sáng ra thấy mặt họ buồn, Giu-se hỏi hai quan tướng: "Tại sao hôm nay mặt mày các ông buồn thế? " Họ trả lời: "Chúng tôi đêm qua làm mơ, mà không có ai giải thích cả." Giu-se nói với họ: "Giải thích là việc của Thiên Chúa, nhưng cứ kể lại cho tôi nghe xem."
Quan thứ nhất kể lại giấc mơ cho Giu-se, ông nói: "Trong giấc mơ, tôi thấy trước mặt tôi có một cây nho, trên cây nho có ba ngành. Khi cây đâm chồi thì hoa nở ra và các chùm nho chín. Trong tay tôi có chén của Pha-ra-ô. Tôi hái nho, ép nước đổ vào chén của Pha-ra-ô, rồi đặt chén vào lòng bàn tay Pha-ra-ô."
Giu-se giải thích giấc mơ cho ông ấy: "Ba ngành là ba ngày. Còn ba ngày nữa, Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên. Vua sẽ phục hồi chức vụ cho ông, và ông sẽ đặt chén vào tay vua Pha-ra-ô, như lúc ông còn là quan của vua. Khi vua xử tốt với ông, xin ông tỏ tình thương đối với tôi và tâu với Pha-ra-ô về tôi, để vua sớm thả tôi ra."
Quan kia thấy Giu-se đã giải thích có lý nên nói với ông: "Cả tôi nữa, trong giấc làm mơ, tôi thấy ba giỏ bánh trên đầu tôi. Trong giỏ trên cùng, có đủ thứ bánh ngọt để cho Pha-ra-ô ăn. Chim chóc rỉa những thứ đó trong cái giỏ trên đầu tôi."
Giu-se giải thích rằng: "Ba giỏ là ba ngày. Còn ba ngày nữa, Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên khỏi thân ông. Vua sẽ treo ông lên cây, và chim chóc sẽ rỉa thịt ông." Ông nghe vậy thì sợ hãi lắm.
Sang ngày thứ ba sinh nhật của Pha-ra-ô, vua mở tiệc ăn mừng với các triều thần và nâng đầu hai qua ấy lên giữa triều thần. Vua phục hồi chức vụ cho quan chánh, và ông đặt chén vào lòng bàn tay Pha-ra-ô. Còn quan chánh kia thì vua treo lên, như Giu-se đã giải thích giấc mơ cho họ.
Hai năm sau, Pha-ra-ô làm mơ thấy mình đang đứng trên bờ sông Nin, và từ sông Nin có bảy con bò cái đi lên, hình dáng đẹp đẽ và da thịt béo tốt; chúng ăn cỏ trong đám lau sậy. Sau những con ấy, có bảy con bò cái khác từ sông Nin đi lên, hình dáng xấu xí và da thịt gầy còm, chúng đứng bên cạnh những con bò kia. Bảy con bò cái hình dáng xấu xí và da thịt gầy còm ăn thịt bảy con bò cái hình dáng đẹp đẽ và béo tốt. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh giấc.
Vua ngủ lại và làm mơ lần thứ hai. Vua thấy bảy bông lúa đâm lên trên cùng một cọng, mẩy và tốt. Rồi có bảy bông lúa lép và nám cháy vì gió đông, mọc lên sau chúng. Bảy bông lúa lép nuốt chửng bảy bông lúa mẩy và chắc. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh dậy và biết đó là giấc mơ.
Sáng ra, vua không băn khoăn vì giấc mơ đó, vua mời tất cả các phù thủy và hiền sĩ Ai-cập đến: Pha-ra-ô kể lại cho họ các giấc làm mơ của mình, nhưng không có ai giải thích được.
Bấy giờ quan chánh nhớ tới Giuse là người đã giải thích giấc mơ cho ông, và cho mời Giu-se đến. Pha-ra-ô nói cho Giu-se nghe về giấc mơ của mình. Giu-se thưa Pha-ra-ô: "Hai giấc mơ của Pha-ra-ô chỉ là một. Điều Thiên Chúa sắp làm thì Người đã báo cho Pha-ra-ô biết trước. Bảy con bò cái tốt là bảy năm, bảy bông lúa tốt cũng là bảy năm được mùa. Bảy con bò cái ốm nhom và xấu xí đi lên sau chúng là bảy năm, và bảy bông lúa còi và nám cháy vì gió đông là bảy năm đói kém.
Sắp tới là bảy năm rất sung túc trong toàn cõi Ai-cập. Tiếp sau những năm đó là bảy năm đói kém; trong xứ Ai-cập người ta sẽ quên đi tất cả sự sung túc đang có, và nạn đói sẽ rất trầm trọng.
Lời giải thích đó làm hài lòng Pha-ra-ô và triều thần. Vua nói: "Chúng ta tìm đâu được một người như người này, một người có Thần Khí Thiên Chúa ở cùng?" Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: "Thiên Chúa đã cho ông biết tất cả những điều ấy, không ai thông minh và khôn ngoan như ông. Ông sẽ là tể tướng triều đình của ta, toàn thể dân ta sẽ phục tùng mệnh lệnh của ông; ta lớn hơn ông chỉ có ngai vua mà thôi."
Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: "Ta đặt ông cai quản đất nước Ai-cập."
Câu chuyện thứ 11
ÔNG MÔSÊ CHÀO ĐỜI
Sách Xuất Hành chương 2
Dân Is-ra-en làm nô lệ bên Ai-Cập và tuy họ làm việc vất vả nhưng họ sanh con đẻ cái đông đúc, Vua Ai-cập sợ nên truyền giết tất các bé trai Is-ra-en mới sinh.
Có một bà Lê-vi sinh một con trai. Thấy đứa bé dễ thương quá, bà giấu nó ba tháng trời vì sợ người Ai-cập giết. Khi không thể giấu lâu hơn được nữa, bà lấy một cái thúng cói bỏ đứa bé vào, rồi đặt cái thúng trong đám sậy ở bờ sông Nin.
Bà sai chị đứa bé đứng ở đàng xa để xem chuyện gì sẽ xảy ra cho em nó. Lúc đó, nàng công chúa của Pha-ra-ô đang tắm dưới sông. Nàng thấy cái thúng động đậy ở giữa đám lau sậy, thì sai đầy tớ tới xem. Mở thúng ra, nàng thấy một bé trai đang khóc. Nàng động lòng thương và nói: "Đứa bé này là một trong những đứa trẻ người Híp-ri."
Chị đứa bé đứng trên bờ sông thưa với công chúa: "Bà có muốn con đi gọi cho bà một vú nuôi người Híp-ri, để nuôi đứa bé cho bà không?" Công chúa Pha-ra-ô trả lời: "Cứ đi đi!" Người con gái liền đi gọi mẹ đứa bé. Công chúa Pha-ra-ô bảo bà ấy: "Chị đem đứa bé này về nuôi cho tôi. Tôi sẽ trả công cho chị." Người đàn bà mang ngay đứa bé về nuôi. Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pha-ra-ô. Nàng coi nó như con mình và đặt tên là Mô-sê; nghĩa là được vớt lên khỏi nước."
Ông Môsê lớn khôn, và một hôm ông ra ngoài thăm đồng bào Is-ra-en. Ông thấy những việc khổ sai họ phải làm thì xót thương. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh đồng bào của ông. Nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, ông liền giết người Ai-cập, rồi chôn vùi dưới cát.
Hôm sau, ông lại đi ra, gặp hai người Híp-ri đang đánh nhau, ông nói với người có lỗi: "Tại sao anh lại đánh người đồng hương?" Người đó trả lời: "Ai đã đặt ông lên làm người xét xử chúng tôi? Hay là ông tính giết tôi như đã giết tên Ai-cập kia hay sao?" Ông Mô-sê sợ và tự bảo: "Người ta đã biết chuyện rồi! Ta nên chạy trốn" Nghe biết chuyện, Pha-ra-ô tìm giết ông Mô-sê. Ông Mô-sê liền đi trốn tới miền Ma-đi-an.
Con gái Thầy tư tế Ma-đi-an đến múc nước ở giếng và đổ đầy máng cho chiên uống. Bấy giờ, có những người chăn chiên khác đến và đuổi các cô đi. Ông Mô-sê liền bênh vực các cô và múc nước cho chiên uống. Các cô về nói với cha là ông Rơ-u-ên rằng: "Có một người Ai-cập đã cứu chúng con khỏi tay bọn chăn chiên, lại còn múc nước giùm chúng con và cho chiên uống nữa." Người cha bảo các con: "Thế người đó đâu rồi? Đi mời ông ta đến dùng bữa." Ông Mô-sê bằng lòng ở lại nhà thầy tư tế, và sau này lấy người con gái là Xíp-pô-ra. Nàng sinh một con trai và ông đặt tên cho nó là Ghéc-sôm, vì ông nói: "Tôi là ngoại kiều nơi đất khách quê người."
Câu chuyện thứ 12
THIÊN CHÚA HIỆN RA TRONG BỤI GAI BỐC CHÁY
Sách Xuất Hành chương 3
Một hôm, Ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô. Ông dẫn đàn chiên qua sa mạc đến núi Khô-rếp. Thiên sứ của Thiên Chúa hiện ra với ông trong lửa cháy giữa bụi gai. Mô-sê thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được".
Từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê!" Ông thưa: "Dạ, có con đây! " Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh. Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa thì chết.
Thiên Chúa phán: "Ta đã thấy cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Ta muốn giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng tới một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật. Ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với vua Pha-ra-ô để đưa dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập."
Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Con là ai mà dám đến với Vua Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập? Vả lại con không biết nói năng." Chúa phán: "Ta sẽ ở với ngươi. Bây giờ, đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa sai tôi đến với anh em. Nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì ngươi trả lời họ: "Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu." Đó là danh Ta muôn thuở, danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia."
Ngươi hãy đi triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em, đã hiện ra với tôi và phán: Ta thật sự quan tâm đến cách người ta đối xử với các ngươi bên Ai-cập. Ta sẽ cho các ngươi thoát cảnh khổ cực bên Ai-cập mà lên miền đất người Ca-na-an tràn trề sữa và mật. Họ sẽ nghe tiếng ngươi, rồi ngươi sẽ đi với các kỳ mục Ít-ra-en đến cùng vua Ai-cập nói với vua ấy rằng: Thiên Chúa của người Híp-ri đã cho chúng tôi được gặp Người. Giờ đây, xin cho chúng tôi đi vào sa mạc để tế lễ Thiên Chúa chúng tôi. Ta biết rằng vua Ai-cập sẽ không cho các ngươi đi, trừ khi có bàn tay quyền năng của Ta can thiệp. Ta sẽ làm các phép lạ giữa dân Ai-cập để đánh nó, và sau cùng, vua ấy sẽ cho các ngươi đi".
Câu chuyện thứ 13
CÁC TAI ƯƠNG XẢY RA VỚI VUA PHARAÔ
Sách Xuất Hành chương 8-12
Cây gậy biến thành con rắn Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Nếu Pha-ra-ô bảo các ngươi làm một phép lạ cho ông xem, thì ngươi hãy nói với A-ha-ron cầm cây gậy ném xuống trước mặt Pha-ra-ô, và gậy sẽ hoá thành một con rắn." Ông Mô-sê và ông A-ha-ron liền đến với Pha-ra-ô và làm như Thiên Chúa đã truyền. Ông A-ha-ron ném cây gậy của mình xuống trước mặt Pha-ra-ô và tôi tớ của vua: gậy hoá thành một con rắn to. Pha-ra-ô cũng triệu các pháp sư đến; và các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của mình mà làm như vậy: mỗi người ném cây gậy của mình và gậy hoá thành một con rắn to. Nhưng gậy của ông A-ha-ron nuốt gậy của họ. Nhưng Pha-ra-ô vẫn cứng lòng, không cho dân Is-ra-en ra đi.
1. Nước biến thành máu Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Pha-ra-ô cứng lòng không chịu thả cho dân đi. Hãy cầm trong tay cây gậy đã biến thành rắn, dùng cây gậy ấy mà đập trên nước sông, và nước sẽ hoá thành máu. Cá dưới sông sẽ chết, sông sẽ ra hôi thối, và người Ai-cập sẽ không thể uống nước sông được nữa, cả nước Ai-cập, chỗ nào cũng có máu". Nhưng Pha-ra-ô vẫn không chịu nghe hai ông.
2. Ếch nhái Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến gặp Pha-ra-ô và nói: "Nếu vua không chịu thả cho dân đi, thì Thiên Chúa sẽ dùng nạn ếch nhái mà đánh phạt toàn thể lãnh thổ của vua, Sông Nin sẽ đầy ếch nhái; chúng sẽ ngoi lên, nhảy vào cung điện ngươi, vào phòng ngủ, nhảy lên giường, vào nhà tôi tớ và nhà dân ngươi, nhảy vào lò, vào cối nhồi bột của ngươi. Ếch nhái sẽ leo lên thân thể ngươi, thân thể dân ngươi và mọi tôi tớ của ngươi."
Pha-ra-ô gọi ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Hãy cầu xin Thiên Chúa đuổi ếch nhái đi xa ta và dân ta, rồi ta sẽ thả dân ra để họ đi tế lễ Thiên Chúa." Ông Mô-sê đã xin với Thiên Chúa và Thiên Chúa đã cho ếch nhái chết hết. Thấy tạm yên, Pha-ra-ô thay đổi ý định không chịu cho dân Is-ra-en ra đi.
3. Muỗi Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron giơ gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập." Các phù thủy dùng phù phép của mình cũng làm như thế để bắt muỗi phải ra khỏi đất Ai-cập, nhưng không được. Các phù thủy thưa với Pha-ra-ô: "Đó là việc Thiên Chúa làm." Nhưng lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông.
4. Ruồi nhặng Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Sáng mai dậy sớm và đến đứng trước mặt Pha-ra-ô nói với vua: Thiên Chúa phán thế này: Nếu ngươi không thả cho dân Ta đi, thì này Ta sẽ thả ruồi nhặng xuống trên ngươi và tôi tớ ngươi, trên dân và cung điện của ngươi. Nhà cửa Ai-cập sẽ đầy ruồi nhặng, toàn cõi đất Ai-cập bị ruồi nhặng tàn phá".
Pha-ra-ô thấy ruồi nhặng tàn phá thì nói: "Ta sẽ thả các ngươi ra, để các ngươi đi tế lễ Thiên Chúa của các ngươi trong sa mạc, nhưng hãy xin Thiên Chúa cho ruồi nhặng sẽ rời khỏi ta và đất nước ta". Ông Mô-sê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm theo lời ông Mô-sê xin. Nhưng lòng Pha-ra-ô vẫn cứng cỏi; vua không thả cho dân đi.
5. Bệnh Dịch Mosê lại đến nói với vua: Nếu vua không chịu thả cho chúng tôi đi, thì Thiên Chúa sẽ giáng ôn dịch rất nặng xuống trên súc vật của vua ở ngoài đồng, trên ngựa, lừa, lạc đà, bò bê và chiên cừu". Ngay hôm sau, Thiên Chúa làm điều ấy: tất cả súc vật của người Ai-cập đều chết, còn trong đàn súc vật của con cái Ít-ra-en, thì không con nào chết cả. Pha-ra-ô sai người đi xem, thì này trong đàn súc vật của Ít-ra-en, không con nào chết cả. Nhưng lòng Pha-ra-ô đã ra cứng cỏi; vua không thả cho dân đi.
6. Mụn nhọt Thiên Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Hãy lấy mồ hóng trong lò, rồi đến đứng trước mặt Pha-ra-ô. Ông Mô-sê tung lên trời và mồ hóng biến thành ung nhọt rồi mưng mủ nơi thân thể người ta và thú vật. Ung nhọt mọc đầy mình các phù thủy cũng như mọi người Ai-cập. Nhưng lòng Pha-ra-ô ra chai đá, vua ấy không nghe lời các ông như Thiên Chúa đã nói trước với ông Mô-sê.
7. Mưa đá Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến nói với Pha-ra-ô. Nếu Ta ra tay, dùng dịch hạch mà đánh phạt vua và dân vua, thì dân vua sẽ biến khỏi mặt đất. Nhưng sở dĩ Ta còn cho vua sống, là để vua nhìn thấy sức mạnh của Ta, và để thiên hạ loan truyền danh Ta trên khắp mặt đất. Nếu vua cứ chống lại dân Ta, không thả cho chúng đi, Ta sẽ cho mưa đá rất lớn. Bất cứ người hay thú vật nào ở ngoài đồng mà không ở trong nhà, thì mưa đá rơi xuống, người ấy, vật ấy sẽ chết."
Ông Mô-sê giơ gậy lên trời, và Thiên Chúa làm cho sấm vang lên và mưa đá rơi xuống; sét đánh xuống mặt đất. Thiên Chúa làm cho mưa đá rơi xuống trên đất Ai-cập. Trên khắp đất Ai-cập, mưa đá đã tàn phá tất cả những gì đang ở ngoài đồng, từ người cho đến thú vật; mưa đá cũng tàn phá mọi cỏ cây ngoài đồng và bẻ gãy mọi cây cối ngoài đồng. Lòng Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không thả cho con cái Ít-ra-en đi.
8. Châu chấu Ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến nói với Pha-ra-ô: "Nếu vua không chịu thả cho dân Thiên Chúa ra đi, thì ngày mai Thiên Chúa sẽ cho châu chấu tràn vào lãnh thổ ngươi. Chúng sẽ che kín cả mặt đất, khiến người ta không thể thấy mặt đất nữa. Chúng sẽ ăn sạch cây cối, mùa màng những gì còn lại sau các tai ương. Cung điện của vua, nhà của mọi tôi tớ vua, nhà của mọi người Ai-cập sẽ tràn ngập châu chấu". Tôi tớ Pha-ra-ô thưa với vua: "Xin bệ hạ thả bọn người ấy ra, để họ đi thờ phượng Thiên Chúa của họ. Ai-cập đang đi tới chỗ diệt vong rồi."
Pha-ra-ô vội gọi ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và nói: "Ta đắc tội với Thiên Chúa của các ngươi. Vậy giờ đây, xin xá tội cho ta lần này nữa thôi, và hãy khẩn nài Thiên Chúa của các ngươi, ít ra là đẩy xa ta cái tai hoạ chết người này." Ông Mô-sê khẩn nài Thiên Chúa. Thiên Chúa cho gió biển nổi lên rất mạnh, cuốn châu chấu đi và đẩy xuống Biển Sậy; không còn sót một con châu chấu nào trên toàn lãnh thổ Ai-cập nữa. Nhưng Thiên Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, và vua không thả cho con cái Ít-ra-en đi.
9. Cảnh tối tăm Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trời, cho bóng tối bao trùm đất Ai-cập, bóng tối như sờ thấy được." Ông Mô-sê giơ tay lên trời, và bóng tối dày đặc bao trùm cả đất Ai-cập trong ba ngày. Nhưng tất cả chỗ con cái Ít-ra-en ở đều có ánh sáng.
Pha-ra-ô triệu ông Mô-sê đến và bảo: "Các ngươi hãy đi thờ phượng Thiên Chúa; chỉ có chiên cừu, bò dê của các ngươi phải ở lại, còn trẻ con có thể cùng đi với các ngươi." Nhưng Thiên Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá và vua không chịu thả cho họ đi.
Các con đầu lòng phải chết Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta sẽ giáng một tai ương nữa xuống Pha-ra-ô và Ai-cập. Sau đó, vua ấy sẽ thả các ngươi ra khỏi đây". Ông Mô-sê nói với vua: "Thiên Chúa phán thế này: vào nửa đêm, Ta sẽ rảo khắp Ai-cập. Mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập sẽ phải chết, từ con đầu lòng của Pha-ra-ô đến con đầu lòng của đứa đầy tớ gái, đến mọi con đầu lòng của loài vật. Trong khắp đất Ai-cập, sẽ vang lên tiếng kêu la như chưa từng có và không bao giờ có nữa. Còn nơi mọi con cái Ít-ra-en, sẽ bình yên. Bấy giờ tất cả các tôi tớ của vua sẽ tìm tôi và thưa: xin ông và toàn dân theo ông hãy ra khỏi nước. Và chúng tôi sẽ ra đi." Và đã xảy ra như thế.
Câu chuyện thứ 14
LỄ VƯỢT QUA
Sách Xuất Hành chương 12
Thiên Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất Ai-cập: Hãy nói với toàn thể dân Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, mỗi gia đình phải bắt một con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa. Còn thịt, sẽ ăn ngay trong đêm ấy, nướng thịt lên, ăn với bánh không men và rau đắng.
Không được để lại gì đến sáng ngày mai; cái gì còn lại phải đốt đi. Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã: đó là lễ Vượt Qua mừng Thiên Chúa.
Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Thiên Chúa. Còn vết máu bôi trên cửa nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập.
Đang đêm nhà vua cho gọi ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến gấp và bảo: "Cả các ngươi lẫn con cái Ít-ra-en, đứng lên, đi ngay, không được ở giữa dân ta nữa! Đi đi và cầu phúc cho ta và dân ta nữa." Người Ai-cập vội vàng thả cho Is-ra-en đi ra khỏi nước, vì họ nói: "Chúng ta sắp chết cả lũ đến nơi rồi!" Dân Is-ra-en đêm đó vội vã lên đường.
Câu chuyện thứ 15:
PHÉP LẠ BIỂN ĐỎ
Sách Xuất Hành chương 14
Khi dân Ít-ra-en vừa đi khỏi, có người chạy báo tin cho vua Pha-ra-ô là Israen đã chạy trốn. Pha-ra-ô liền thay lòng đổi dạ ngẫm nghĩ: "Ta thật khờ dại quá? Ta đã thả cho Ít-ra-en đi, bọn chúng không còn làm nô lệ cho ta nữa. Ta phải bắt chúng lại phục vụ cho Ta."
Nhà vua cho chiến xa và quân lính đuổi theo. Vua lấy 600 chiến xa tốt nhất, và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào cũng có chiến binh hùng mạnh. Quân lực Pharaô đuổi theo và bắt kịp Ít-ra-en, khi họ đóng trại bên bờ biển Ha-khi-rốt.
Khi Pha-ra-ô tới gần, Con cái Ít-ra-en kinh hãi, liền lớn tiếng kêu cầu Thiên Chúa. Họ nói với ông Mô-sê: "Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì vậy chứ, khi ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ Ai-cập còn hơn chết khô trong sa mạc!"
Ông Mô-sê nói với dân: "Đừng sợ! Rồi anh em sẽ thấy việc Thiên Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em thấy lại nữa. Thiên Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có việc ngồi yên."
Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước dân Ít-ra-en liền rời chỗ mà đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây tỏa khói mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được.
Nghe lời Thiên Chúa, Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Thiên Chúa cho một cơn gió thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra làm hai, và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên.
Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pha-ra-ô tiến vào giữa lòng biển sau dân Ít-ra-en. Vào lúc gần sáng, Thiên Chúa gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau: "Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì Thiên Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ."
Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng." Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Thiên Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót.
Còn con cái Ít-ra-en đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập.
Câu chuyện thứ 16
BÁNH MAN-NA TỪ TRỜI
Sách Xuất Hành chương 16
Toàn thể con cái Ít-ra-en tới sa mạc Sin kể từ khi họ ra khỏi đất Ai-cập. Trong sa mạc, con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay Thiên Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng các ông đã đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói ở đây."
Thiên Chúa nghe biết liền phán với ông Mô-sê: "Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không. Ngày thứ sáu, khi chúng dọn phần ăn đã đưa về, sẽ có gấp đôi phần cho chúng lượm mỗi ngày để ăn vào ngày thứ Bảy."
Ông Mô-sê và ông A-ha-ron nói với con cái Ít-ra-en: "Thiên Chúa sẽ cho anh em chiều có thịt để ăn, và sáng có bánh để được thoả thuê, vì Thiên Chúa đã nghe thấy những lời anh em kêu trách Người."
Chiều đến, chim cút bay đến rợp cả trại. Và buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Rồi khi sương tan đi thì trên mặt đất, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền hỏi nhau: "Man hu? " Nghĩa là: "Cái gì đây? " Vì họ không biết đó là cái gì. Ông Mô-sê bảo họ: "Đó là bánh Thiên Chúa ban cho anh em làm của ăn".
Ông Mô-sê nói với họ: "Đừng có ai để dành cho đến sáng." Một số người đã không nghe lời ông Mô-sê: họ để dành cho đến sáng, và bánh đó đã có giòi bọ và xông ra mùi hôi thối. Bấy giờ ông Mô-sê nổi giận với họ vì họ không nghe lời Thiên Chúa. Sáng nào cũng vậy, mỗi người lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và khi mặt trời toả sức nóng, thì nó tan ra.
Ít-ra-en đặt tên cho vật ấy là Man-na. Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.
Ông Mô-sê nói: "Đây là điều Thiên Chúa đã truyền: Hãy đong đầy một đấu để giữ lại cho con cháu các ngươi; như thế, chúng sẽ thấy bánh Ta đã cho các ngươi ăn trong sa mạc, lúc Ta đem các ngươi ra khỏi đất Ai-cập." Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Hãy lấy một cái bình và đổ vào đó một đấu đầy man-na, rồi đặt trước nhan Thiên Chúa để giữ lại cho con cháu anh em." Theo như Thiên Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, ông A-ha-ron đã đặt cái bình ấy đằng trước Chứng Ước, để giữ lại.
Con cái Ít-ra-en đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới đất định cư; họ đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an.
Câu chuyện thứ 17
10 ĐIỀU RĂN
Sách Xuất Hành chương 19
Con cái Ít-ra-en nhổ trại rời Rơ-phi-đim tới sa mạc Xi-nai, và dựng trại trong sa mạc đối diện với núi Xi-nai.
Ông Mô-sê lên núi gặp Thiên Chúa. Thiên Chúa gọi ông và phán: "Ngươi sẽ nói lại cho con cái Ít-ra-en thế này: Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta. Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì các ngươi sẽ là dân riêng của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh".
Ông Mô-sê từ trên núi xuống với dân: "Trong ba ngày, anh em phải chuẩn bị sẵn sàng để đón Thiên Chúa". Đến ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Thiên Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh.
Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. Thiên Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai. Người gọi ông Mô-sê lên đỉnh núi, và ông đi lên. Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để xem Thiên Chúa, kẻo nhiều người phải lăn ra chết". Ông Mô-sê xuống nói với họ điều đó.
Thiên Chúa phán với Mô-sê những lời sau đây:
"Ta là Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Thiên Chúa hay ghen tương.
Ngươi không được dùng danh Thiên Chúa một cách bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người cách bất xứng.
Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, Vì trong sáu ngày, Thiên Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Thiên Chúa đã chúc phúc cho ngày Sa-bát và coi đó là ngày thánh.
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Thiên Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.
Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng gian hại người.
Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta."
Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy và đứng xa xa. Họ nói với ông Mô-sê: "Xin chính ông nói với chúng tôi, thì chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất! "
Ông Mô-sê bảo dân: "Đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đến là để làm cho anh em luôn luôn kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội."
Câu chuyện thứ 18
CON BÊ BẰNG VÀNG
Sách Xuất Hành chương 32
Dân thấy ông Mô-sê lâu quá không xuống núi, bèn nói với ông A-ha-ron: "Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho ông Mô-sê."
Ông A-ha-ron nói với họ: "Hãy gỡ các vòng vàng mà vợ con các anh em đeo rồi đem đến cho tôi." Ông lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập."
Thiên Chúa biết họ đã làm như thế thì phán với ông Mô-sê: "Hãy đi xuống núi, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi. Chúng đã đi ra ngoài con đường Ta truyền dạy. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó." Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: "Ta đã thấy dân này rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng."
Ông Mô-sê từ núi đi xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước; những bia ấy có viết cả hai mặt, mặt trước cũng như mặt sau. Những bia ấy do Thiên Chúa làm ra, chữ của Thiên Chúa khắc trên các bia.
Khi đến gần trại, ông thấy con bê bằng vàng và bọn người đang nhảy múa điên cuồng. Ông Mô-sê nổi cơn thịnh nộ: Ông ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân núi.
Ông Mô-sê trở lại với Thiên Chúa và thưa: "Than ôi, dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài tha thứ tội cho họ!"
Câu chuyện thứ 19
ÔNG BILƠAM VÀ CON LỪA
Sách Dân số
Vua Mô-áp kinh hãi phải đối đầu với con cái Ít-ra-en. Vua liền sai các sứ giả đến mời Bi-lơ-am. Vua nói: "Này, có một dân đã ra khỏi Ai-cập, lan tràn khắp xứ và hiện đang đóng trại đối diện với ta. Bây giờ xin ông đến nguyền rủa dân đó cho ta, vì nó mạnh hơn ta. May ra nhờ thế ta có thể đánh bại được nó và đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của ta. Vì ta biết kẻ nào được ông chúc phúc thì được phúc và kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc hoạ."
Các kỳ mục Mô-áp và các kỳ mục Ma-đi-an đã lên đường, cầm theo tiền thù lao cho lời sấm; họ tới gặp ông Bi-lơ-am và chuyển tới ông lời của vua Ba-lác. Ông nói với họ: "Mời các ông qua đêm ở đây, rồi tôi sẽ trả lời cho các ông theo như Thiên Chúa nói với tôi."
Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán rằng: "Những kẻ đang ở với ngươi là ai đó?" Ông Bi-lơ-am thưa lại với Thiên Chúa: "Ba-lác, vua Mô-áp đã sai họ đến nói với tôi xin nguyền rủa Is-ra-en". Bấy giờ Thiên Chúa phán bảo ông Bi-lơ-am: "Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc." Sáng hôm sau ông Bi-lơ-am trỗi dậy và nói với các thủ lãnh vua Ba-lác đã sai đến, rằng: "Các ông hãy trở về xứ các ông; Thiên Chúa đã từ chối không để cho tôi đi với các ông."
Một lần nữa vua Ba-lác lại sai các thủ lãnh đông hơn và có thế giá hơn những người trước. Họ đến gặp ông Bi-lơ-am và thưa rằng: "Vua Ba-lác nói thế này: Ông đừng ngại đến với ta; chắc chắn ta sẽ hết sức trọng đãi ông, và tất cả những gì ông bảo, ta sẽ làm; ông cứ đến nguyền rủa dân ấy giúp ta." Nhưng ông Bi-lơ-am trả lời và nói với bầy tôi vua Ba-lác rằng: "Vua Ba-lác có cho tôi một nhà đầy bạc đầy vàng, tôi cũng chẳng làm gì trái lệnh Thiên Chúa, Thiên Chúa của tôi được, dù việc lớn hay việc nhỏ. Nhưng bây giờ, cả các ông nữa, mời các ông cũng nghỉ đêm ở đây, và tôi sẽ biết Thiên Chúa có phán thêm điều gì với tôi không."
Đêm ấy Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán bảo ông: "Những người ấy đến, không phải để gọi ngươi đó sao? Cứ trỗi dậy, đi với chúng. Nhưng ngươi chỉ được làm điều Ta bảo ngươi." Sáng ngày, ông Bi-lơ-am trỗi dậy, cưỡi con lừa cái của mình và lên đường với các thủ lãnh Mô-áp.
Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa bừng lên vì ông đã ra đi, và thần sứ của Thiên Chúa đứng trên đường chận lối ông đi. Ông cỡi con lừa cái của mình, có hai tiểu đồng đi theo. Khi con lừa thấy thần sứ của Thiên Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay, thì nó tránh đường, đi xuống ruộng. Ông Bi-lơ-am đánh con lừa cho nó lên trên đường.
Bấy giờ thần sứ của Thiên Chúa đứng chặn tại một đường mòn giữa các vườn nho, tả hữu có tường. Con lừa cái trông thấy thần sứ của Thiên Chúa thì đi ép vào tường khiến chân ông Bi-lơ-am bị cọ xát. Ông lại đánh nó.
Thần sứ của Thiên Chúa lại đi tới và đứng ở một nơi chật hẹp đến nỗi không còn chỗ tránh qua bên tả bên hữu. Con lừa trông thấy thần sứ của Thiên Chúa, liền nằm bẹp xuống bên dưới ông Bi-lơ-am. Ông Bi-lơ-am nổi nóng lại dùng gậy đánh con lừa.
Bấy giờ Thiên Chúa liền mở miệng con lừa; nó nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi đã làm gì ông, mà ông lại đánh tôi những ba lần? " Ông Bi-lơ-am nói với con lừa: "Vì mày đã ngạo tao. Tao mà có sẵn chiếc gươm trong tay, thì tao đã giết mày rồi! " Con lừa nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi không phải là con lừa cái của ông, mà ông đã cỡi mãi cho tới ngày hôm nay sao? Tôi có quen làm như vậy với ông bao giờ chưa? " Ông đáp: "Chưa bao giờ."
Bấy giờ Thiên Chúa mới mở mắt cho ông Bi-lơ-am thấy thần sứ của Thiên Chúa trên đường, gươm trần trong tay. Ông quỳ xuống, sấp mặt sát đất. Thần sứ của Thiên Chúa nói với ông: "Tại sao ngươi đánh con lừa của ngươi những ba lần? Này, chính Ta đứng ra chặn đường ngươi, vì trước mặt Ta, con đường này nguy hiểm. Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt Ta những ba lần. Giả như nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống." Ông Bi-lơ-am thưa với thần sứ của Thiên Chúa: "Tôi đã trót phạm tội, vì tôi không biết là Ngài đứng chặn đường không cho tôi đi. Bây giờ nếu Ngài thấy là không được, thì tôi sẽ quay về nhà." Thần sứ của Thiên Chúa nói với ông Bi-lơ-am: "Ngươi cứ đi với các người ấy; nhưng ngươi chỉ được nói điều Ta bảo ngươi." Thế là ông Bi-lơ-am cùng đi với các thủ lãnh của vua Ba-lác.
Vua Ba-lác cho mời ông Bi-lơ-am tới, và đưa ông lên Ba-mốt Ba-an; từ đây ông nhìn thấy trại của dân Is-ra-en. Ông Bi-lơ-am chúc phúc cho Is-ra-en. Vua Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Ông làm gì ta thế? Ta đưa ông tới để ông nguyền rủa kẻ thù của ta, thế mà, này ông chỉ chúc phúc thôi." Ông trả lời: "Tôi lại không phải nói điều Thiên Chúa đặt vào miệng tôi sao?" Sau đó ông Bi-lơ-am đứng dậy lên đường về xứ.
Câu chuyện thứ 20
HÒM BIA THIÊN CHÚA
Sách Đệ Nhị Luật chương 9
Thiên Chúa phán bảo Môsê: "Hãy đẽo hai bia đá như những bia trước, và lên núi ở đó với Ta. Ngươi cũng hãy làm một hòm gỗ. Ta sẽ viết lại trên các bia những lời đã có trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ, và ngươi hãy đặt các bia ấy trong hòm."
Môsê đã làm một hòm bằng gỗ, và đẽo hai bia đá như những bia trước, và lên núi tay cầm hai bia đá. Thiên Chúa đã viết trên các bia điều đã viết lần trước, là 10 điều răn Thiên Chúa đã phán với Môsê trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. Rồi Thiên Chúa đưa những bia đó cho Môsê. Môsê quay xuống núi, đặt các bia đó vào hòm Môsê đã làm, và các bia vẫn còn đó, như Thiên Chúa đã truyền cho Môsê.
Từ những giếng nước Bơ-nê Gia-a-can, con cái Ít-ra-en lên đường đi Mô-xê-ra. Ông A-ha-ron qua đời và được chôn cất tại đó. Ông E-la-da, con ông, thi hành chức vụ tư tế thay cha mình.
Thiên Chúa tách chi tộc Lê-vi ra, để họ mang Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa, chầu chực trước nhan Thiên Chúa, phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Người. Vì thế, chi tộc Lê-vi không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em mình; chính Thiên Chúa là gia nghiệp của họ, như Thiên Chúa của anh em đã phán với họ.
Môsê ở trên núi, như những ngày trước, suốt 40 ngày 40 đêm, và cả lần này nữa Thiên Chúa cũng nhận lời Môsê: Thiên Chúa đã không huỷ diệt anh em. Thiên Chúa phán với Môsê: "Đứng dậy! hãy lên đường và đi phía trước dân, để chúng vào chiếm hữu đất mà Ta đã thề với cha ông chúng rằng Ta sẽ ban cho chúng."
Câu chuyện thứ 21
DO THÁM ĐẤT HỨA
Sách Giôsuê chương 1-2
Sau khi ông Mô-sê qua đời, Thiên Chúa phán với ông Giô-suê người thay thế Môsê: "Mô-sê đã chết. Bây giờ, ngươi và cùng với tất cả dân qua sông Gio-đan, mà vào đất Ta hứa ban cho con cái Ít-ra-en. Ta sẽ ở với ngươi như Ta đã ở với Mô-sê".
Từ Sít-tim, ông Giô-suê bí mật gọi hai người do thám và nói: "Hãy đi xem vùng đất và thành Giê-ri-khô." Họ đã đi và vào một nhà một phụ nữ tên là Ra-kháp. Người ta báo cho vua Giê-ri-khô: "Đêm qua, có vài người con cái Ít-ra-en đã vào đây để thăm dò vùng đất này." Vua Giê-ri-khô sai người đến nói với cô Ra-kháp: "Hãy dẫn ra đây những người đã vào nhà ngươi, vì họ đã đến thăm dò vùng đất này." Nhưng bà đem hai người kia đi giấu, rồi nói: "Những người ấy có đến với tôi, nhưng lúc chập tối họ đã đi ra khỏi thành. Các ông hãy mau đuổi theo họ thì sẽ bắt kịp."
Rồi cô đem họ lên sân thượng và giấu họ dưới đống cây. Các người kia cứ đuổi theo họ trên con đường dẫn tới sông Gio-đan. Họ chưa kịp nằm xuống, thì cô Ra-kháp lên gặp họ trên sân thượng nói với họ: "Tôi biết Thiên Chúa đã ban cho các ông đất này, vì chúng tôi nghe đồn là Thiên Chúa đã làm cạn Biển Đỏ trước mặt các ông khi các ông ra khỏi Ai-cập. Khi chúng tôi nghe đồn, thì lòng chúng tôi sợ hãi như muốn chảy tan ra, không ai còn chí khí trước mặt các ông, vì Thiên Chúa, Thiên Chúa của các ông, là Thiên Chúa ngự chốn trời cao cũng như nơi đất thấp.
Vậy bây giờ, xin các ông hãy nhân danh Thiên Chúa mà thề với tôi là: bởi tôi đã lấy tình mà đối xử với các ông, thì các ông, các ông cũng sẽ lấy tình mà đối xử với gia đình tôi. Các ông sẽ để cho cha mẹ tôi, các anh chị em tôi và mọi người thân thuộc của họ được sống, các ông sẽ cứu chúng tôi khỏi chết." Những người ấy nói với cô Ra-kháp: "Chúng tôi xin thề lấy mạng đền mạng, trừ phi các người tiết lộ chuyện này! Vậy khi nào Thiên Chúa ban đất này cho chúng tôi, chúng tôi sẽ lấy chữ tình chữ tín mà đối xử với cô."
Bấy giờ, từ cửa sổ cô thòng dây cho họ xuống, vì nhà cô sát vách tường thành và cô ở ngay trong tường thành. Cô nói với họ: "Các ông hãy đi về phía núi, kẻo những người đuổi theo bắt được các ông." Họ nói với cô: "Đây là cách chúng tôi sẽ giữ lời mà cô đã yêu cầu chúng tôi thề: Khi nào chúng tôi vào xứ này, cô sẽ buộc dây chỉ đỏ này ở cửa sổ, nơi cô đã thả chúng tôi xuống" Và họ ra đi. Cô buộc dây chỉ đỏ ở cửa sổ.
Họ lên đường và tiến về phía núi. Những người đã đi lùng bắt họ trên cả con đường ấy mà không tìm được. Hai người kia trở về tới gặp ông Giô-suê, và thuật lại cho ông mọi việc đã xảy ra cho họ.
Câu chuyện thứ 22
CHIẾM THÀNH GIÊ-RI-KHÔ
Sách Giôsuê chương 6
Khi đến gần Giê-ri-khô, ông Giô-suê ngước mắt nhìn, thì thấy có người đứng đối diện với ông, tay cầm gươm sáng. Ông Giô-suê đến gần người ấy và nói: "Ông về phe chúng tôi hay về phe địch? " Người ấy nói: "Không, ta là tướng chỉ huy đạo binh của Thiên Chúa." Ông Giô-suê sấp mặt xuống đất nói: "Ngài muốn dạy tôi tớ ngài điều gì? " Vị tướng chỉ huy đạo binh của Thiên Chúa nói với ông Giô-suê: "Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh" Và ông Giô-suê đã làm như vậy.
Giê-ri-khô đóng cổng thành, phòng thủ kiên cố chống lại con cái Ít-ra-en. Thiên Chúa phán với ông Giô-suê: "Ta nộp vào tay ngươi thành Giê-ri-khô, vua và các dũng sĩ của thành ấy. Các ngươi sẽ đi chung quanh thành một lần; các ngươi sẽ làm như vậy sáu ngày liên tiếp. Bảy tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành bảy lần, và các tư tế sẽ thổi tù và. Khi tù và bằng sừng cừu rú lên, khi các ngươi nghe tiếng tù và, thì toàn dân lớn tiếng hò reo tiến lên xung trận. Bấy giờ tường thành sẽ sụp đổ tại chỗ."
Ông Giô-suê triệu tập các tư tế và nói với họ: "Các ông hãy khiêng Hòm Bia Thiên Chúa, và bảy tư tế phải cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia Thiên Chúa." Ông nói với dân: "Hãy tiến tới và đi vòng quanh thành; những người được võ trang hãy qua phía trước Hòm Bia Thiên Chúa." Điều đó đã xảy ra như ông Giô-suê đã nói với dân. Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng cừu qua phía trước nhan Thiên Chúa, vừa đi vừa thổi; còn Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa thì đi sau họ. Quân tiên phong đi trước các tư tế đang thổi tù và. Quân hậu vệ đi theo sau Hòm Bia. Ai nấy bước đi theo tiếng tù và.
Hòm Bia Thiên Chúa đi vòng quanh thành, đi một vòng chung quanh, rồi ai nấy trở về trại và qua đêm tại đó. Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm, và các tư tế khiêng Hòm Bia Thiên Chúa. Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia Thiên Chúa, vừa đi vừa thổi; quân tiên phong đi trước họ, và quân hậu vệ theo sau Hòm Bia Thiên Chúa; ai nấy bước đi theo tiếng tù và.
Ngày thứ hai, họ đi vòng quanh thành một lần, rồi trở về trại. Họ làm như vậy sáu ngày. Ngày thứ bảy, họ dậy sớm khi rạng đông vừa lên, và đi vòng quanh thành bảy lần cùng theo một cách thức. Chỉ có ngày đó họ mới đi vòng quanh thành bảy lần. Đến lần thứ bảy, khi các tư tế thổi tù và, ông Giô-suê nói với dân: "Hãy hò reo xung trận, vì Thiên Chúa đã nộp thành cho anh em."
Bấy giờ, dân hò reo tiến lên xung trận. Vừa nghe tiếng tù và, dân lớn tiếng hò reo xung trận, và tường thành sụp đổ tại chỗ. Dân chúng ai nấy cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên đánh thành, và đã chiếm được. Người phụ nữ Ra-kháp và mọi người ở với cô trong nhà là sẽ được cứu sống, vì cô đã giấu các sứ giả của Is-ra-en.
Câu chuyện thứ 23
THIÊN CHÚA GỌI ÔNG GHÍT-ÔN
Sách Thủ lãnh chương 6
Sau khi ông Giô-suê qua đời, con cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã trao họ vào tay người Ma-đi-an trong 7 năm. Người Ma-đi-an đối xử tàn tệ và làm khổ con cái Ít-ra-en, và họ đã kêu lên Thiên Chúa.
Nghe tiếng kêu van của con cái Ít-ra-en, Thiên Chúa đã sai một ngôn sứ đến với họ. Ông nói: "Thiên Chúa phán: Chính Ta đã đưa các ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh làm nô lệ, đã giải thoát các ngươi khỏi bị áp bức, đã ban cho các ngươi đất đai màu mỡ. Và Ta đã phán với các ngươi: Ta là Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được kính thờ các thần khác, nhưng các ngươi đã không nghe tiếng Ta."
Thiên Sứ của Thiên Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Óp-ra. Cây này của ông Giô-át. Con ông là Ghít-ôn bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Ma-đi-an. Thiên Sứ của Thiên Chúa hiện ra với ông và nói: "Chào chiến sĩ can trường! Thiên Chúa ở với ông." Ông Ghít-ôn đáp: "Nếu Thiên Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi bị khổ sở thế này? Thiên Chúa đã bỏ rơi và trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an rồi."
Bấy giờ Thiên Chúa quay lại nhìn ông và nói: "Hãy mạnh bạo lên đường cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ma-đi-an. Ta sai ngươi đi." Nhưng ông đáp: "Thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Ít-ra-en? Dòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con lại nhỏ nhất trong nhà." Thiên Chúa phán: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Ma-đi-an như đánh có một người." Ông thưa: "Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu hiệu. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài." Người phán: "Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về."
Ông Ghít-ôn đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới gốc cây tùng.
Khi Sứ Thần của Thiên Chúa giơ cây gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Sứ Thần Thiên Chúa biến khỏi mắt ông. Ông Ghít-ôn thấy việc đó thì biết là Sứ Thần Thiên Chúa và ông tin.
Một đêm kia Thiên Chúa phán bảo ông: "Hãy lấy con bò bảy tuổi của cha ngươi, rồi phá huỷ bàn thờ thần Ba-an của cha ngươi và chặt đứt cây cột thần bên cạnh. Ngươi sẽ xây bàn thờ kính Thiên Chúa, trên đỉnh kiên cố này. Ngươi sẽ lấy con bò và dâng làm lễ toàn thiêu với gỗ cây cột thần ngươi đã chặt."
Ông Ghít-ôn mang theo mười người đầy tớ và làm như Thiên Chúa đã nói với ông. Vì sợ người nhà của cha mình và những người trong thành xem thấy, ông đã làm vào ban đêm. Sáng hôm sau, khi những người trong thành thức dậy, thì kìa bàn thờ thần Ba-an đã bị triệt hạ, cây cột thần cạnh đó đã bị chặt, và con bò mộng đã được dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ mới xây.
Họ nói với nhau: "Ai đã dám làm chuyện này?" Rồi họ điều tra thì ra là ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, đã làm chuyện đó. Dân liền nói với ông Giô-át: "Đưa con ông ra đây! Nó phải chết, vì nó đã triệt hạ bàn thờ Ba-an và đã chặt đứt cây cột thần bên cạnh." Ông Giô-át nói với tất cả mọi người: "Các anh bênh quyền lợi của Ba-an ư? Hay là các anh tính cứu thần đó? Kẻ nào bênh quyền lợi thần Ba-an sẽ phải chết trước khi trời sáng. Nếu Ba-an là thần thì Ba-an sẽ cứu các ngươi". Ông Ghít-ôn đã phá bàn thờ thần Ba-an đó.
Câu chuyện thứ 24
ÔNG SAM-SÔN
Sách Thủ Lãnh chương 14,16
Con cái Ít-ra-en lại làm điều gian ác trái mắt Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã trao họ vào tay người Phi-lip-tinh cai trị họ trong 40 năm.
Có một người đàn ông thuộc chi tộc Đan tên là Ma-nô-ác. Vợ ông không sinh con. Sứ giả Thiên Chúa hiện ra nói với bà: "Này, bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không lướt được trên đầu con trẻ, vì nó sẽ là một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ cứu Ít-ra-en khỏi áp bức của người Phi-lip-tinh."
Ông Ma-nô-ác cầu xin Thiên Chúa: "Thưa Ngài, xin vui lòng cho người của Thiên Chúa đến với chúng con một lần nữa, và dạy chúng con phải làm gì cho đứa trẻ sẽ sinh ra." Thiên Chúa nghe tiếng ông và đến gặp vợ ông lúc bà đang ở ngoài đồng, không có mặt chồng bà ở đó. Bà vội vã chạy đi báo tin cho chồng: "Này người đã gặp tôi hôm trước, lại hiện ra với tôi nữa." Ông Ma-nô-ác đứng dậy chạy theo vợ, đến gặp người ấy và nói: "Ngài có phải là người đã nói với bà này không? " Người ấy đáp: "Chính tôi." Ông Ma-nô-ác nói: "Đứa bé phải giữ luật nào, và nó phải làm gì?" Sứ giả Thiên Chúa nói: "Tất cả những điều tôi đã nói với bà ấy thì bà ấy phải giữ. Đó là những gì bởi cây nho mà ra, thì bà không được ăn, cũng không được uống rượu và thức có men; tất cả những gì không thanh sạch, thì bà không được ăn."
Bấy giờ ông Ma-nô-ác nói với sứ giả Thiên Chúa: "Xin ngài cho biết quý danh, để khi xảy ra như ngài nói, chúng tôi sẽ trả công ngài!" Sứ giả Thiên Chúa nói: "Sao ông lại hỏi tên tôi? Đó là một điều bí nhiệm." Bấy giờ ông Ma-nô-ác bắt một con dê tơ và lấy tế phẩm, để dâng làm lễ toàn thiêu trên tảng đá kính Thiên Chúa. Khi ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì sứ giả của Thiên Chúa cũng bay lên theo trong ngọn lửa, trước sự chứng kiến của ông Ma-nô-ác và vợ ông; họ phục lạy sát đất.
Bà vợ sinh được một con trai và đặt tên là Sam-sôn. Đứa bé lớn lên, và Thiên Chúa chúc lành cho nó. Thần khí Thiên Chúa bắt đầu hoạt động trên Sam-sôn. Sam-sôn xuống Tim-na và để ý đến một cô gái người Phi-lip-tinh. Ông về báo cho cha mẹ rằng: "Con đã để ý đến một cô gái người Phi-lip-tinh tại Tim-na. Vậy xin cha mẹ cưới cô ấy cho con." Cha ông cũng như mẹ ông nói: "Trong số con gái của bà con mày và trong dân tao, không có phụ nữ hay sao mà mày lại đi lấy vợ người Phi-lip-tinh?" Nhưng ông Sam-sôn trả lời cha: "Xin cha cứ cưới cô ấy cho con, vì nàng vừa mắt con." Cha mẹ ông không biết rằng việc đó là do Thiên Chúa xui khiến, bởi lẽ Người đang tìm cớ cho người Phi-lip-tinh gây chuyện.
Ông Sam-sôn xuống Tim-na, và khi ông tới các vườn nho thì này một con sư tử rống lên và nhảy chồm ra phía ông. Bấy giờ thần khí Thiên Chúa ập xuống trên ông; ông dùng tay không xé nó ra như xé một con dê con; nhưng ông không cho cha mẹ hay việc ông đã làm. Sau đó ông xuống chuyện trò với người phụ nữ và nàng vừa mắt Sam-sôn. Ít lâu sau, ông trở lại cưới nàng. Ông rẽ qua để xem xác chết con sư tử, thì này có một đàn ong làm tổ trong bộ xương con sư tử và có mật nữa. Ông móc ra và cầm trong tay, vừa đi vừa ăn. Rồi khi về nhà, ông biếu cha mẹ và cha mẹ ông cũng ăn. Nhưng ông không cho cha mẹ biết là ông đã móc mật ong từ bộ xương con sư tử chết ngoài đường.
Ông Sam-sôn nói với người Phi-lip-tinh: "Tôi ra cho các anh một câu đố. Nếu trong bảy ngày tiệc, các anh giải được câu đố ấy và tìm ra câu đáp, thì tôi sẽ tặng các anh 30 chiếc áo lụa quý và 30 chiếc khác để thay. Nếu các anh không giải được, thì các anh phải cho tôi ba mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi chiếc khác để thay." Họ nói với ông: "Anh ra câu đố đi; chúng tôi nghe đây." Ông liền nói với họ: "Thức ăn xuất tự người dùng, ngọt ngào xuất tự sức hùng, là chi?" Sau ba ngày họ vẫn không giải được câu đố.
Ngày thứ tư họ nói với vợ ông Sam-sôn: "Hãy dụ chồng chị để anh ấy giải nghĩa câu đố cho chúng tôi, nếu không, chúng tôi sẽ nổi lửa đốt cả chị lẫn nhà cha chị." Vợ ông Sam-sôn khóc tỉ tê bên ông suốt bảy ngày tiệc. Ngày thứ bảy ông siêu lòng giải nghĩa cho nàng, và nàng cho đồng bào mình biết câu trả lời. Ngày thứ bảy, trước khi mặt trời lặn, người trong thành nói với ông: "Cái gì ngọt quá mật ong, khoẻ hơn sư tử thì ông chịu hàng!" Ông bảo họ: "Không cày với bò cái của ta, tụi bay đã chẳng tìm ra câu này."
Bấy giờ thần khí Thiên Chúa ập xuống trên ông; ông đi xuống Át-cơ-lôn bắt 30 người trong bọn họ, lột áo của những người ấy, rồi trao những áo để thay cho những kẻ đã giải được câu đố.
Ít lâu sau, ông Sam-sôn mang một con dê tơ đến thăm vợ. Ông nói: "Tôi muốn vào phòng của vợ tôi"; nhưng bố vợ không cho ông vào. Ông Sam-sôn đi bắt ba trăm con chó sói; lấy đuốc, rồi cột ngược đuôi con này với đuôi con kia và buộc một chiếc đuốc giữa hai đuôi. Ông châm lửa vào đuốc và lùa sói vào đồng lúa chín của người Phi-lip-tinh, lửa thiêu rụi từ gốc rạ cho đến bông lúa, thiêu cả vường nho và ô-liu nữa.
Người Phi-lip-tinh giận dữ hỏi: "Ai đã làm chuyện này? " Và người ta đáp: "Đó là Sam-sôn, con rể của ông người Tim-na, vì ông ấy đã đem vợ hắn gán cho người phù rể của hắn." Những người Phi-li-tinh nổi lửa đốt cả nàng lẫn cha nàng. Ông Sam-sôn nói với họ: "Vì chúng bay đã làm như thế, thì tao sẽ trả thù cho được mới thôi." Ông đánh cho chúng một trận tơi bời, khiến chúng bị thảm bại. Rồi ông xuống ở trong một hốc đá tại Ê-tham.
Người Phi-li-tinh lên đóng trại ở Giu-đa và tràn ra tới Lê-khi. Người Giu-đa nói với chúng: "Tại sao các anh lại lên chống chúng tôi? " Chúng đáp; "Để bắt trói Sam-sôn; chúng tôi lên để xử với hắn như hắn đã xử với chúng tôi." 3000 người Giu-đa xuống hốc đá ở Ê-tham, Họ nói: "Chúng tôi xuống bắt trói và nộp ông cho người Phi-li-tinh!" Ông Sam-sôn nói với họ: "Các anh phải thề với tôi là các anh sẽ không đập chết tôi." Rồi họ dùng hai chiếc dây thừng mới trói ông và kéo ông lên khỏi hốc đá.
Ông vào đến Lê-khi, thì người Phi-lip-tinh reo hò ra đón ông. Bấy giờ khi thần khí của Thiên Chúa ập xuống trên ông, những chiếc dây thừng trên cánh tay ông tựa như những sợi chỉ cháy xèo trong lửa và dây cột tay ông đều tuột xuống. Vớ được một hàm lừa còn tươi, ông đưa tay lượm lấy và dùng nó đánh chết một ngàn người.
Ông liệng chiếc hàm khỏi tay, và gọi nơi ấy là Ra-mát Lê-khi. Ông khát quá, nên kêu cầu Thiên Chúa rằng: "Ngài là Đấng đã dùng tay tôi tớ Ngài thực hiện cuộc chiến thắng vĩ đại này, mà chẳng lẽ giờ đây con lại phải chết khát và rơi vào tay những kẻ không cắt bì? " Bấy giờ Thiên Chúa xẻ khe đá ở Lê-khi, nước liền vọt ra; ông uống, thấy hồi sức và tỉnh táo lại.
Sau đó ông phải lòng một phụ nữ tên là Đa-li-la, Các vương hầu Phi-lip-tinh lên gặp cô ta. Họ nói với nàng: "Cô hãy dụ hắn xem bởi đâu hắn có sức mạnh như thế, và chúng tôi phải dùng cách nào mới trị được hắn, trói làm sao mới khống chế được hắn, rồi mỗi người chúng tôi sẽ cho cô một ngàn mốt bạc."
Đa-li-la nói với ông: "Làm sao anh nói là anh yêu em, trong khi anh không thật lòng với em? Đây là lần thứ ba anh xí gạt em và không tỏ cho em biết: bởi đâu anh có sức mạnh như thế?" Vì ngày nào nàng cũng dùng hết lời lẽ mà nài ép và làm khổ ông, khiến ông thổ lộ hết tâm can với nàng, và nói: "Dao cạo chưa hề đụng đến đầu anh, vì anh là một na-dia của Thiên Chúa từ lúc còn trong lòng mẹ. Nếu anh bị cạo đầu thì anh sẽ mất sức ngay, trở nên yếu nhược và như mọi người khác."
Đa-li-la liền sai người đi gọi các vương hầu Phi-lip-tinh và nói: "Anh ấy đã thổ lộ hết với tôi. Các ông hãy tới bắt." Các vương hầu Phi-lip-tinh liền lên gặp nàng, mang sẵn bạc trong tay. Vậy nàng làm cho ông ngủ trên đầu gối mình, rồi kêu người cạo bảy bím tóc trên đầu ông; nàng bắt đầu khống chế ông, và ông đã mất sức. Nàng nói: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy! " Ông tỉnh giấc và nói: "Mình sẽ bung ra như mọi lần và lại thoát thôi." Nhưng ông đâu có biết: ĐỨC CHÚA không còn ở với ông nữa. Quân Phi-li-tinh bắt lấy ông, móc mắt và giải ông xuống Ga-da. Chúng chập xích đồng lại, cột ông và bắt ông kéo cối xay trong nhà tù.
Câu chuyện thứ 25
CÔ RÚT VÀ BÀ NA-O-MI
Sách Rút chương 1-3
Một nạn đói xảy ra thời các Thủ lãnh. Có một người đàn ông là Ê-li-me-léc, vợ là Na-o-mi và hai con trai là Mác-lôn và Kin-giôn đến ở trong cánh đồng Mô-áp. Rồi ông Ê-li-me-léc chết đi, còn lại bà Na-o-mi và hai đứa con. Hai người này lấy vợ Mô-áp, một người tên là Oóc-pa, người kia tên là Rút. Họ ở lại đó chừng 10 năm. Rồi Mác-lôn và Kin-giôn cả hai đều chết, còn lại bà Na-o-mi mất chồng, mất con trai. Bà lên đường cùng với hai người con dâu mà trở về quê hương, vì bà nghe nói là Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn.
Bà Na-o-mi nói với hai con dâu: "Thôi, mỗi người chúng con hãy trở về nhà mẹ mình. Xin Thiên Chúa tỏ lòng thương chúng con! Xin Thiên Chúa cho mỗi người chúng con tìm được cuộc sống an nhàn dưới mái nhà một người chồng!" Rồi bà ôm hôn hai con dâu. Họ oà lên khóc.
Họ thưa: "Chúng con muốn cùng mẹ trở về với dân của mẹ." Bà Na-o-mi nói: "Các con ơi, về đi, theo mẹ làm gì? Mẹ còn con trai nào nữa đâu mà gả chồng cho các con. Về đi, các con ơi! Mẹ quá già rồi. Chẳng lẽ chúng con cứ ở vậy, không lấy chồng nữa? Hai người con dâu lại oà lên khóc. Oóc-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Rút thì cứ khắng khít theo bà.
Bà Na-o-mi nói: "Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!" Rút đáp: "Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, vì mẹ đi đâu, con đi đó, mẹ ở đâu, con ở đó, dân của mẹ là dân của con, Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.
Thấy Rút cứ một mực đi với mình, bà Na-o-mi không còn nói gì về chuyện đó nữa. Hai mẹ con cùng đi tới Bê-lem làm cả thành bàn tán xôn xao. Các người phụ nữ hỏi: "Có phải bà Na-o-mi đấy không?" Bà nói: "Đừng gọi tôi là Na-o-mi nữa, hãy gọi tôi là Ma-ra, vì tôi phải chịu quá nhiều cay đắng. Tôi ra đi, của cải dư đầy, Thiên Chúa đem tôi về hai bàn tay trắng."
Bà Na-o-mi có một thân nhân bên chồng rất giàu. Người ấy tên là Bô-át. Rút nói với bà Na-o-mi: "Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có lòng nhân từ đoái nhìn con." Bà trả lời: "Con cứ đi đi." Nàng đi và đến ruộng mót lúa đằng sau thợ gặt của ông Bô-át. Và kìa ông Bô-át từ Bê-lem đến, nói với thợ gặt: "Xin Thiên Chúa ở cùng các anh! " Họ nói: "Xin Thiên Chúa giáng phúc cho ông!" Ông Bô-át nói với người tôi tớ: "Cô kia là người của ai thế?" Người tôi tớ trả lời: "Đó là một phụ vữ Mô-áp, người đã cùng với bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp trở về. Cô đã nói: "Cho phép tôi mót và nhặt những bông lúa đằng sau thợ gặt. Cô ấy đã đến và ở lại từ sáng tới giờ: Cô ấy chẳng chịu nghỉ ngơi chút nào."
Ông Bô-át nói với Rút: "Này con, con có nghe không? Đừng đi mót ở ruộng nào khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. Con nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Ta đã ra lệnh cho các tôi tớ không được đụng tới con. Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống nước các tôi tớ đã múc." Rút liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông, rồi nói: "Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến, dù con là một người ngoại quốc?" Ông Bô-át đáp: "Người ta đã kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con mất. Xin Thiên Chúa trả công cho con vì những gì con đã làm! Chớ gì Thiên Chúa là Đấng cho con ẩn náu dưới cánh Người!" Nàng nói: "Thưa ông, ước gì con được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn, vì ông đã an ủi con và nói những lời thân ái với nữ tỳ của ông, mặc dù con không đáng làm một nữ tỳ của ông."
Đến bữa ăn, ông Bô-át nói với nàng: "Con lại gần đây, lấy bánh chấm vào nước dấm mà ăn." Nàng ngồi bên cạnh thợ gặt. Ông Bô-át đưa cho nàng một mớ lúa rang. Nàng ăn no và còn để dành nữa. Rồi nàng trỗi dậy mót lúa. Ông Bô-át ra lệnh này cho các tôi tớ của ông: "Các anh hãy để ý rút vài bông lúa ra khỏi đống lúa đã gặt và để lại cho cô ấy mót." Nàng mót trong ruộng cho đến chiều, rồi đập lúa đã mót. Tất cả được gần hai thùng lúa mạch.
Nàng đem lúa trở về thành và mẹ chồng thấy những gì nàng đã mót được. Rồi nàng đưa cho bà những gì nàng để dành sau khi ăn no. Mẹ chồng nói với nàng: "Hôm nay con đã mót ở đâu? Con đã làm ở đâu? Xin Thiên Chúa giáng phúc cho người đã quan tâm đến con!" Nàng nói: "Người đã cho con làm ở ruộng mình hôm nay tên là Bô-át." Bà Na-o-mi nói với con dâu: "Xin Thiên Chúa giáng phúc cho ông ấy, Người là Đấng đã không từ chối tỏ lòng nhân nghĩa đối với kẻ sống và kẻ chết."
Rút thưa: "Ông ấy còn nói với con: "Con cứ theo sát các tôi tớ của ta cho đến khi chúng gặt hái xong tất cả." Bà Na-o-mi bảo con dâu là Rút: "Con ơi, tốt hơn là con cứ đi ra với các tớ gái của ông ấy, để khỏi bị người ta ngược đãi trong ruộng khác." Vậy nàng theo sát các tớ gái của ông Bô-át để mót, cho đến hết mùa gặt lúa mạch và lúa mì. Và nàng vẫn ở với mẹ chồng.
Câu chuyện thứ 26
ÔNG SAM-MU-EN
Sách Samuen 1 chương 1,3,4
Bà An-na không có con. Tâm hồn buồn sầu, bà cầu nguyện với Thiên Chúa và khóc nức nở: "Lạy Thiên Chúa các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một đứa con trai, thì con sẽ dâng nó cho Thiên Chúa, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó."
Vì bà cứ cầu nguyện lâu trước nhan Thiên Chúa, nên ông Ê-li để ý đến miệng bà. Bà An-na thầm thĩ cầu nguyện trong lòng: chỉ có môi bà mấp máy, không ai nghe thấy tiếng bà. Ông Ê-li nghĩ rằng bà say rượu. Ông Ê-li bảo bà: "Bà còn say đến bao giờ? Hãy về lo dã rượu đi! " Bà An-na trả lời rằng: "Không, thưa ngài, tôi chỉ là một người đàn bà tâm hồn đau khổ. Tôi đã không uống rượu và đồ uống có men, tôi chỉ thổ lộ tâm can trước nhan Thiên Chúa." Ông Ê-li trả lời rằng: "Bà hãy đi về bình an. Xin Thiên Chúa của Ít-ra-en ban cho bà điều bà đã xin Người! "
Sáng hôm sau, bà dậy sớm và sụp lạy trước nhan Thiên Chúa, rồi trở về nhà. Thiên Chúa đã nhớ đến bà và cho bà An-na thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Sa-mu-en, vì bà nói: "Tôi đã xin Thiên Chúa được nó."
Cậu bé Sa-mu-en phụng sự Thiên Chúa và được thầy Ê-li trông nom. Một ngày kia, ông Ê-li đang ngủ, mắt ông đã bắt đầu mờ, ông không còn thấy nữa. Sa-mu-en đang ngủ trong đền thờ Thiên Chúa, nơi có đặt Hòm Bia Thiên Chúa. Thiên Chúa gọi Sa-mu-en trong đêm. Cậu thưa: "Dạ, con đây!" Rồi chạy lại với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông bảo: "Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi." Cậu bèn đi ngủ. Thiên Chúa lại gọi Sa-mu-en lần nữa. Sa-mu-en dậy, đến với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông bảo: "Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi." Bấy giờ Sa-mu-en chưa biết Thiên Chúa, và lời Thiên Chúa chưa được mặc khải cho cậu. Thiên Chúa lại gọi Sa-mu-en lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Bấy giờ ông Ê-li hiểu là Thiên Chúa gọi cậu bé vì cậu còn nhỏ. Ông Ê-li nói với Sa-mu-en: "Con về ngủ đi, và hễ có ai gọi con thì con thưa: "Lạy Thiên Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe." Sa-mu-en về ngủ ở chỗ của mình.
Thiên Chúa gọi như những lần trước: "Sa-mu-en! Sa-mu-en!" Sa-mu-en thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe." Thiên Chúa phán với Sa-mu-en: "Này Ta sắp làm một điều tại Ít-ra-en mà bất cứ ai nghe nói cũng phải ù cả hai tai. Ta sẽ thực hiện mọi điều Ta đã phán về nhà Ê-li, từ đầu đến cuối. Ta vĩnh viễn kết án nhà nó vì nó biết các con nó nguyền rủa Thiên Chúa mà đã không sửa dạy chúng."
Sa-mu-en ngủ cho đến sáng, rồi mở các cửa của Nhà Thiên Chúa. Sa-mu-en sợ không dám kể lại thị kiến cho ông Ê-li. Ông Ê-li gọi Sa-mu-en và nói: "Sa-mu-en, con ơi! " Cậu thưa: "Dạ, con đây! " Ông nói: "Người đã phán với con điều gì? Thầy xin con đừng giấu thầy." Sa-mu-en kể lại cho ông mọi điều, không giấu ông điều nào. Ông nói: "Người là Thiên Chúa. Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt lành."
Sa-mu-en lớn lên. Thiên Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu. Toàn thể Ít-ra-en biết ông Sa-mu-en được Thiên Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của Người.
Câu chuyện thứ 27
SA-UN, VỊ VUA ĐẦU TIÊN
Sách Samuen 1 chương 8-10
Khi ông Sa-mu-en đã già, ông đặt các con trai ông làm thủ lãnh Ít-ra-en. Con đầu lòng của ông tên là Giô-en, con thứ hai tên là A-vi-gia. Các con trai ông đã không đi theo đường lối của ông kính sợ Thiên Chúa, chúng ham lợi lộc, nhận quà hối lộ và làm trái công lý.
Toàn thể các kỳ mục đến nói với ông Sa-mu-en: "Ông coi, ông già rồi, và các con ông lại không đi theo đường lối của ông. Vậy xin ông bầu cho chúng tôi một vị vua để vua xét xử chúng tôi, như các dân tộc khác." Ông Sa-mu-en bực mình vì lời họ nói: "Xin ông cho chúng tôi một vua để xét xử chúng tôi."
Và ông Sa-mu-en cầu nguyện với Thiên Chúa. Thiên Chúa buồn phán với ông Sa-mu-en: "Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng. Chúng đã bỏ Ta mà phụng sự những thần khác. Chỉ có điều là ngươi phải cẩn thận cảnh cáo cho chúng biết quyền hành của nhà vua sẽ cai trị chúng."
Ông Sa-mu-en nói lại mọi lời của Thiên Chúa cho dân. Ông nói: "Đây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em. Các con trai anh em, ông sẽ bắt mà cắt đặt vào việc trông coi xe và ngựa của ông, và chúng sẽ chạy đàng trước xe của ông. Ông sẽ bắt chúng cày đất cho ông, gặt lúa cho ông, chế tạo vũ khí cho ông và dụng cụ cho xe của ông. Các con gái anh em, ông sẽ bắt vào làm thợ chế nước hoa, nấu ăn và làm bánh. Đồng ruộng, vườn nho, vườn cây ô-liu tốt nhất của anh em, ông sẽ lấy mà cho bề tôi của ông. Lúa thóc và vườn nho của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Các tôi tớ nam nữ, các người trai tráng khá nhất của anh em, các con lừa của anh em, ông sẽ bắt mà dùng vào việc của ông. Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Thiên Chúa sẽ không đáp lời anh em."
Dân không chịu nghe ông Sa-mu-en. Họ nói: "Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi giống như mọi dân tộc. Vua chúng tôi sẽ xét xử chúng tôi, sẽ dẫn đầu chúng tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của chúng tôi." Ông Sa-mu-en nghe tất cả những lời của dân và nói lại những lời ấy cho Thiên Chúa nghe. Thiên Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng cho chúng biết mùi."
Ông Sa-mu-en triệu tập dân và nói với con cái Ít-ra-en: "Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán như sau: Chính Ta đã đưa các ngươi lên từ Ai-cập và đã giải thoát các ngươi khỏi tay người Ai-cập và khỏi tay mọi vương quốc đang áp bức các ngươi. Còn các ngươi, hôm nay các ngươi đã gạt bỏ Thiên Chúa của các ngươi, và các ngươi đã thưa với Người: "Xin Ngài lập một vua cai trị chúng tôi. Vậy bây giờ hãy đến đứng trước mặt Thiên Chúa theo từng chi tộc và thị tộc." Ông Sa-mu-en cho các chi tộc rút thăm. Ông Sa-un con ông Kít trúng thăm. Họ nhìn quanh tìm ông mà không thấy.
Thiên Chúa trả lời: "Nó đang lẩn trốn trong đống hành lý." Họ chạy đến, lôi ông từ đó ra, và ông đến đứng giữa dân. Ông cao hơn toàn dân từ vai trở lên. Toàn dân reo hò và nói: "Vạn tuế đức vua!"
Câu chuyện thứ 28
VUA ĐAVÍT ĐƯỢC XỨC DẦU
Sách Samuen 1 chương 16
Vua Sa-un đã bỏ không theo và thi hành các lệnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Giê-sê vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua."
Ông Sa-mu-en thưa: "Con đi thế nào được? Vua Sa-un mà biết thì vua sẽ giết con!" Thiên Chúa phán: "Ngươi hãy đem theo một con bò cái tơ và hãy nói: "Tôi tới đây là để dâng hy lễ lên Thiên Chúa. Ngươi sẽ mời Gie-sê đến dự hy lễ; phần Ta, Ta sẽ cho ngươi biết điều ngươi phải làm, và ngươi sẽ xức dầu tấn phong cho Ta kẻ Ta sẽ nói cho ngươi hay."
Ông Sa-mu-en làm điều Thiên Chúa đã phán; ông đến Bê-lem thanh tẩy ông Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ. Khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: "Đúng rồi! Người Thiên Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Thiên Chúa đây!" Nhưng Thiên Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta không chọn nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Thiên Chúa thì thấy tận đáy lòng." Ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: "Thiên Chúa không chọn những người này."
Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê: "Các con ông có mặt đầy đủ chưa?" Ông Gie-sê trả lời: "Còn đứa út nữa, nó đang chăn chiên." Ông Sa-mu-en liền nói với ông Gie-sê: "Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây." Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Thiên Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!" Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng đựng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Thiên Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.
Vua Sa-un sai sứ giả đến với ông Gie-sê và nói với ông: "Ngươi hãy gửi cho ta Đa-vít, con ngươi, đứa chăn chiên." Ông Gie-sê bắt một con lừa, cho chở bánh, một bầu da rượu, và một con dê con, rồi sai Đa-vít, con ông, mang đến cho vua Sa-un. Đa-vít đến với vua Sa-un và chầu chực trước mặt vua. Vua thương cậu lắm và cậu trở thành người hầu cận của vua. Vua Sa-un sai người đến nói với ông Gie-sê: "Hãy để Đa-vít chầu chực trước mặt ta, vì nó được đẹp lòng ta." Khi thần khí Thiên Chúa xuống trên vua Sa-un, thì Đa-vít cầm đàn và gảy. Bấy giờ vua Sa-un nguôi bệnh, cảm thấy dễ chịu, và thần khí xấu rời khỏi vua.
Câu chuyện thứ 29
KHỔNG LỒ GÔ-LI-ÁT
Sách Samuen 1 chương 17
Người Phi-lip-tinh tập trung quân đội để giao chiến với người Is-ra-en. Một đấu thủ khổng lồ từ doanh trại Phi-lip-tinh tiến ra. Tên nó là Go-li-át. Nó cao khoảng 3 thước, đầu đội mũ chiến bằng đồng, mình mặc áo giáp vảy cá; áo giáp ấy bằng đồng, nặng năm mươi ký. Chân nó mang tấm che bằng đồng, vai đeo cây lao bằng đồng. Cán giáo của nó như trục khung cửi thợ dệt; và mũi giáo của nó bằng sắt, nặng 6 ký. Đi trước mặt nó là người mang thuẫn.
Nó đứng lại và gọi hàng ngũ Ít-ra-en bảo họ: "Hãy chọn lấy một người và nó hãy xuống đây với ta. Nếu nó đủ mạnh để chiến đấu với ta và hạ được ta, thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bay. Còn nếu ta mạnh hơn và hạ được nó, thì chúng bay sẽ làm nô lệ chúng tao và sẽ hầu hạ chúng tao." Vua Sa-un và toàn thể Ít-ra-en nghe vậy thì sợ hãi lắm.
Đa-vít là con nhỏ nhất của ông Gie-sê. Ba con trai lớn của ông Gie-sê đã đi theo vua Sa-un đánh giặc. Sáng nào chiều nào tên khổng lồ Go-li-át cũng tiến ra và đứng như thế suốt 40 ngày. Ông Gie-sê bảo Đa-vít, con ông: "Con mang cho các anh con hai thùng gié lúa rang với mười cái bánh này, và chạy đến trại các anh con. Còn mười miếng bánh sữa này thì con đưa cho viên chỉ huy ngàn quân đang giao chiến với người Phi-lip-tinh."
Sáng hôm sau, Đa-vít dậy sớm, để chiên dê lại cho một người giữ, rồi khăn gói lên đường như ông Gie-sê đã dạy. Cậu đến trại binh lúc quân đội đang ra trận và reo hò giao chiến. Người Ít-ra-en và người Phi-lip-tinh dàn quân, trận tuyến đối nhau. Đa-vít để hành lý lại, giao cho người giữ đồ, rồi chạy ra trận tuyến, đến vấn an các anh.
Cậu còn đang nói với họ, thì kìa ttên đấu thủ Go-li-át nói những lời thách thức như trước và Đa-vít nghe thấy. Vừa thấy tên đó, mọi người Ít-ra-en trốn xa nó và sợ hãi lắm. Đa-vít hỏi những người đang đứng: "Người ta sẽ làm gì cho kẻ hạ được tên Phi-lip-tinh ấy và cất nỗi ô nhục khỏi Ít-ra-en? Thật vậy, tên Phi-lip-tinh không cắt bì kia là ai mà dám thách thức hàng ngũ của Thiên Chúa Hằng Sống? " Dân trả lời cậu ai hạ được hắn vua sẽ trọng thưởng.
Đa-vít đến nói với vua Sa-un: "Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Phi-lip-tinh ấy." Vua Sa-un nói với Đa-vít: "Con không thể chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh." Đa-vít thưa với vua Sa-un: "Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên, thì con ra đuổi theo nó, đánh nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết. Thiên Chúa là Đấng đã giật con khỏi nanh vuốt sư tử và nanh vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay tên Phi-lip-tinh này." Vua Sa-un nói với Đa-vít: "Con hãy đi, xin Thiên Chúa ở với con! " Vua Sa-un đội mũ chiến lên đầu và mặc áo giáp cho cậu. Đa-vít đeo gươm của vua rồi thử bước đi, vì cậu không quen. Đa-vít nói với vua Sa-un: "Con không thể bước đi với những thứ này được" Rồi Đa-vít bỏ những thứ đó ra.
Cậu cầm gậy trong tay, chọn lấy 5 hòn đá dưới suối, bỏ vào túi, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Phi-lip-tinh. Tên Phi-lip-tinh khi thấy Đa-vít, nó khinh dể cậu, vì cậu còn trẻ. Tên Phi-lip-tinh nói với Đa-vít: "Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao? Đến đây, tao sẽ đem thịt mày làm mồi cho chim trời và dã thú."
Đa-vít bảo tên Phi-lip-tinh: "Mày mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân danh Thiên Chúa các đạo binh mà mày thách thức. Ngay hôm nay, Thiên Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một Thiên Chúa che chở Ít-ra-en, và toàn thể đại hội sẽ biết rằng không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Thiên Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc của Thiên Chúa."
Khi tên Phi-lip-tinh bắt đầu xông lên thì Đa-vít vội vàng chạy ra để đương đầu với tên Phi-lip-tinh. Đa-vít thọc tay vào bị, rút ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào trán tên Phi-lip-tinh. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. Thế là Đa-vít thắng tên Phi-lip-tinh nhờ dây phóng và hòn đá. Cậu hạ tên Phi-lip-tinh. Đa-vít chạy lại, đứng trên xác tên Phi-lip-tinh. Người Ít-ra-en reo hò đuổi theo người Phi-lip-tinh cho đến cửa thành Éc-rôn.
Câu chuyện thứ 30
RƯỚC HÒM BIA THIÊN CHÚA VỀ GIÊRUSALEM
Sách Samuen 2 chương 6
Vua Đa-vít quy tụ 30 ngàn quân lính Ít-ra-en. Từ Ba-a-lê Giu-đa, vua Đa-vít cùng đi với toàn dân lên đường để đón Hòm Bia Thiên Chúa, mang danh Thiên Chúa các đạo binh, Đấng ngự trên các thần hộ giá. Người ta đặt Hòm Bia Thiên Chúa lên một cỗ xe mới và mang đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi. Các con ông A-vi-na-đáp là Út-da và Ác-giô điều khiển cỗ xe mới. Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en vui đùa trước nhan Thiên Chúa, với mọi thứ nhạc cụ bằng gỗ trắc bá, với đàn cầm đàn sắt, trống con, chũm choẹ, thanh la...
Một người đụng phải Hòm Bia Thiên Chúa và bị phạt chết, vì thế vua Đa-vít sợ không muốn đưa Hòm Bia Thiên Chúa về với mình trong Thành, nên cho chuyển hướng sang nhà ông Ô-vết Ê-đôm. Hòm Bia Thiên Chúa ở nhà ông Ô-vết Ê-đôm 3 tháng, và Thiên Chúa chúc phúc cho ông Ô-vết Ê-đôm cùng cả nhà ông.
Người ta báo tin cho vua Đa-vít rằng: "Vì Hòm Bia, Thiên Chúa đã chúc phúc cho nhà ông Ô-vết Ê-đôm cùng tất cả những gì thuộc về ông." Vua Đa-vít liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa về Thành, trong niềm hân hoan. Khi những người khiêng Hòm Bia Thiên Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò tơ và một con bê béo. Vua Đa-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Thiên Chúa. Vua Đa-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en rước Hòm Bia Thiên Chúa lên giữa tiếng hò reo với tiếng tù và.
Khi Hòm Bia Thiên Chúa vào Thành vua Đa-vít, bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, từ cửa sổ nhìn xuống thấy vua Đa-vít nhảy múa quay cuồng trước nhan Thiên Chúa như đám trẻ thì khinh dể. Người ta đưa Hòm Bia Thiên Chúa đặt vào chỗ đã dọn giữa lều vua Đa-vít đã dựng sẵn.
Vua Đa-vít dâng lên trước nhan Thiên Chúa những lễ toàn thiêu và những lễ kỳ an. Vua Đa-vít nhân danh Thiên Chúa các đạo binh chúc phúc cho dân. Rồi vua phân phát cho toàn dân đàn ông cũng như đàn bà, mỗi người một cái bánh ngọt, một phần thịt và một cái bánh nho. Rồi toàn dân ai nấy về nhà mình.
Khi vua Đa-vít trở về để chúc phúc cho nhà mình, bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, ra đón vua và nói: "Vua Ít-ra-en hôm nay thật là danh giá, khi để hở hang trước mắt các nữ tỳ của tôi tớ mình, như một đứa vô danh tiểu tốt để hở hang!" Vua Đa-vít nói với bà Mi-khan: "Trước nhan Thiên Chúa, Đấng đã chọn tôi, đẵ đặt tôi làm người lãnh đạo dân Ít-ra-en, trước nhan Thiên Chúa tôi sẽ vui đùa. Tôi sẽ còn hạ mình hơn thế nữa, tôi sẽ coi mình là thấp hèn.
Câu chuyện thứ 31
SA-LÔ-MÔN NGƯỜI KHÔN NGOAN
Sách Vua 1 chương 3
Sa-lô-môn là con rể của Pha-ra-ô vua Ai-cập, vì đã cưới công chúa, và đưa nàng về Thành của Đa-vít, cho đến khi hoàn tất việc xây cất cung điện của ông, cũng như Đền Thờ Thiên Chúa. Dân chúng vẫn tế lễ trên các nơi cao, vì ông vẫn chưa xây được ngôi đền nào để kínhThiên Chúa. Sa-lô-môn yêu mến Thiên Chúa, làm theo các lời chỉ dạy của Đa-vít; nhưng ông vẫn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao.
Sa-lô-môn đến dâng một ngàn lễ vật toàn thiêu trên bàn thờ tại Ghíp-ôn. Đang đêm Thiên Chúa hiện ra báo mộng cho vua Sa-lô-môn, Thiên Chúa phán: "Ngươi xin đi, bất cứ điều gì Ta sẽ ban cho." Vua Sa-lô-môn thưa: "Lạy Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa lên ngôi kế vị Đa-vít, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?"
Thiên Chúa hài lòng vì vua Sa-lô-môn đã xin điều đó. Thiên Chúa phán: "Bởi vì ngươi đã xin điều đó, mà đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử. Ta ban cho ngươi một sự khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi và sau ngươi chẳng một ai sánh bằng. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang không có ai trong các vua được như ngươi. Và nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi." Sa-lô-môn tỉnh dậy, thì biết đó là một giấc mộng.
Bấy giờ có hai phụ nữ vào chầu vua. Khi đứng trước mặt vua, một người nói: "Thưa vua, tôi và người đàn bà này cùng ở một nhà; và tôi sinh một đứa con. Tôi sinh được ba ngày, thì người đàn bà này cũng sinh. Vào đêm nọ, đứa con của chị này chết, vì chị đè lên nó; giữa đêm chị thức dậy, và trong khi tôi vẫn ngủ, thì chị bế đứa con của tôi đang nằm cạnh tôi, và đặt trong lòng mình, còn đứa con đã chết của chị, chị đặt vào lòng tôi. Đến sáng khi tôi thức dậy cho con bú, tôi nhìn kỹ thì ra nó không phải là đứa con tôi đã sinh ra."
Người đàn bà kia trả lời: "Không phải thế, vì con tôi còn sống, con chị mới là đứa chết." Nhưng người này lại nói: "Không phải, con chị mới là đứa chết, đứa sống là con tôi." Và họ cãi nhau trước mặt vua.
Bấy giờ vua ra lệnh: "Đưa cho ta lưỡi gươm." Người ta đưa tới trước mặt vua một chiếc gươm. Và vua quyết định: "Phân đứa trẻ còn sống ra làm hai, và cho mỗi người một nửa!"
Bấy giờ người mẹ của đứa trẻ còn sống, động lòng thương con mình, liền thưa với vua: "Ôi! xin ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống; chớ giết chết nó, xin đừng!" Người kia nói: "Chẳng phải con tôi, cũng chẳng phải con chị, cứ chia ra!"
Bấy giờ vua lên tiếng nói: "Trao đứa trẻ còn sống cho người nói trước, và đừng giết nó, chính nàng mới là mẹ nó." Toàn thể Ít-ra-en nghe biết vụ án vua đã xử, đều kính sợ vua, vì thấy rằng Thiên Chúa đã cho vua một sự khôn ngoan lạ lùng để người xét xử.
Câu chuyện thứ 32
NGÔN SỨ ÊLIA
Sách Vua 1 chương 17
Ông Ê-li-a, người Tít-be, nói với vua A-kháp rằng: "Có Lời Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en: trong những năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra lệnh."
Thiên Chúa phán với ông như sau: "Ngươi hãy bỏ nơi đây đi về phía đông, và ẩn mình trong thung lũng Cơ-rít. Ngươi sẽ uống nước suối. Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở đấy." Ông ra đi và làm như Thiên Chúa truyền. Buổi sáng, quạ mang bánh và thịt cho ông; rồi buổi chiều, quạ cũng mang bánh và thịt cho ông. Ông uống nước suối.
Nhưng sau một thời gian, suối cạn khô, vì không có mưa. Bấy giờ Thiên Chúa phán bảo ông: "Ngươi hãy đứng dậy đi Xa-rép-ta, và ở lại đấy. Này Ta truyền cho một bà goá ở đó nuôi ngươi." Ông liền đứng dậy đi đến cổng thành, ông thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn đem bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống." Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!" Bà trả lời: "Có Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết." Ông Ê-li-a nói với bà: "Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. Vì Thiên Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này:
"Hũ bột sẽ không vơi vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Thiên Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất."
Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Thiên Chúa phán.
Bấy giờ, ông Ê-li-a đến bên dân và nói: "Chỉ sót lại mình tôi là ngôn sứ của Thiên Chúa, còn ngôn sứ của Ba-an có những 450 người. Hãy mang cho chúng tôi hai con bò mộng; chặt cả hai ra và đặt trên củi, nhưng đừng châm lửa. Đoạn các ngươi hãy kêu cầu danh thần của các ngươi; còn tôi, tôi kêu cầu danh Thiên Chúa. Vị thần nào đáp lại bằng lửa thì vị đó chính là Thiên Chúa thật. Toàn dân trả lời: "Đề nghị hay, xin hãy làm!"
Bấy giờ, ông Ê-li-a nói với các ngôn sứ Ba-an: "Các người chọn lấy một con bò và làm trước đi, vì các người đông hơn. Rồi hãy kêu cầu danh thần của các người nhưng đừng châm lửa." Vậy, họ lấy con bò người ta đưa cho họ, làm thịt, rồi kêu cầu danh thần Ba-an từ sáng tới trưa: "Lạy thần Ba-an, xin đáp lời chúng tôi! " Nhưng không một tiếng nói, không một ai trả lời. Đến trưa, ông Ê-li-a chế nhạo họ rằng: "Kêu lớn tiếng lên, vì người là một vị thần mà! Người đang mải suy nghĩ, hay là đi vắng đường xa; có khi người đang ngủ, thì sẽ thức dậy thôi! " Họ càng kêu lớn tiếng hơn và theo thói tục của họ, họ dùng gươm, giáo rạch mình đến chảy máu. Quá trưa rồi mà họ vẫn tiếp tục nói liên miên cho tới giờ dâng lễ; nhưng vẫn không một tiếng nói, không ai trả lời, không người để ý.
Bấy giờ ông Ê-li-a dọn lại bàn thờ Thiên Chúa đã bị phá huỷ. Ông Ê-li-a lấy mười hai phiến đá, theo số các chi tộc con cháu ông Gia-cóp, người đã được Thiên Chúa phán bảo rằng: "Tên ngươi sẽ là Ít-ra-en." Ông dùng các phiến đá ấy xây lại một bàn thờ kính Thiên Chúa. Ông xếp củi lên, rồi làm thịt con bò mộng và đặt trên đống củi. Ông nói: "Hãy đổ nước đầy bốn lu và tưới lên lễ vật và củi." Họ làm như vậy. Nước chảy tràn quanh bàn thờ, khiến đường mương chung quanh cũng đầy nước.
Đến giờ dâng lễ, ngôn sứ Ê-li-a tiến ra và nói: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này. Xin đáp lời con, lạy Thiên Chúa, để dân này nhận biết Ngài là Thiên Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ." Bấy giờ lửa của Thiên Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả nước trong mương cũng hút cạn luôn. Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: "Thiên Chúa quả là Thiên Chúa!" Ông Ê-li-a nói với họ: "Bắt lấy các ngôn sứ Ba-an, đừng để tên nào chạy thoát."
Sau đó, Ông Ê-li-a nói với vua A-kháp: "Xin mời vua lên mà ăn uống, bởi vì có tiếng mưa rào." Ông Ê-li-a thì lên đỉnh Các-men cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. Đoạn ông bảo chú tiểu đồng của ông: "Con đi lên và nhìn về phía biển." Nó đi lên, nhìn và nói: "Không có gì cả! " Ông bảo: "Hãy trở lại bảy lần." Lần thứ bảy, nó nói: "Kìa có một đám mây nhỏ bằng bàn tay đang từ biển bốc lên." Ông nói: "Con hãy lên thưa với vua A-kháp: xin vua ra xe và đi xuống kẻo bị kẹt mưa." Lập tức trời kéo mây đen nghịt và nổi gió, rồi trút mưa lớn".
Câu chuyện thứ 33:
NGÔN SỨ ÊLISA
Sách Vua 2 chương 2
Vào thời gian Thiên Chúa đem ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc, Ông Ê-li-a bảo Elisa: "Xin anh ở lại đây, vì Thiên Chúa sai thầy đến sông Gio-đan". Nhưng ông thưa: "Có Thiên Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy!"Rồi cả hai ông cùng đi.
Năm mươi anh em ngôn sứ cũng đi phía trước hai ông, còn hai ông thì đứng bên bờ sông Gio-đan. Ông Ê-li-a lấy áo choàng của mình, cuộn lại mà đập xuống nước. Nước rẽ ra hai bên. Hai ông đã đi qua ráo chân. Vậy, khi đã đi qua, ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: "Thầy có thể làm gì cho anh trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?"Ông Ê-li-sa nói: "Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!"Ông Ê-li-a đáp: "Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được".
Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc. Thấy thế, ông Ê-li-sa kêu lên: "Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en!"Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh. Ông lượm lấy áo choàng của ông Ê-li-a rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan.
Ông lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước và nói: "Thiên Chúa của ông Ê-li-a ở đâu?"Ông đập xuống nước, nước rẽ ra hai bên, và ông đi qua. Các anh em ngôn sứ Giê-ri-khô thấy ông ở đằng xa thì nói: "Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông Ê-li-sa". Họ đến đón ông và sụp xuống đất lạy ông.
Người trong thành nói với ông Ê-li-sa: "Như ngài thấy đó, địa thế của thành thì tốt, nhưng nước thì độc và xứ sở bị nạn vô sinh". Ông Ê-li-sa bảo: " Lấy cho tôi một cái tô mới và bỏ muối vào đó". Họ đi lấy cho ông. Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống và nói: "Thiên Chúa phán thế này: Ta làm cho nước hoá lành, và nước này sẽ không còn gây chết chóc và nạn vô sinh nữa". Và nước hoá lành cho đến ngày nay, theo lời ông Ê-li-sa đã nói.
Ông rời nơi đó lên Bết Ên. Dọc đường có những trẻ con từ thành đi ra, chúng nhạo ông và nói: "Lên đi, ông hói đầu ơi! Lên đi, ông hói đầu ơi!"Ông quay lại, và khi thấy chúng thì nguyền rủa chúng nhân danh Thiên Chúa. Bấy giờ, có hai con gấu từ trong rừng đi ra và xé xác bốn mươi hai đứa trẻ. Từ nơi đó, ông trở lại Sa-ma-ri.
Có người vợ của một trong những anh em ngôn sứ kêu cứu ông Ê-li-sa: "Tôi tớ ngài là chồng tôi đã chết. Và ngài biết là tôi tớ ngài kính sợ Thiên Chúa. Nhưng chủ nợ đã đến bắt hai đứa con tôi làm nô lệ". Ông Ê-li-sa nói với bà: "Tôi có thể làm gì cho chị đây? Hãy cho tôi biết: trong nhà chị còn có gì không?". Bà thưa: "Trong nhà nữ tỳ của ngài chẳng còn gì cả, trừ một lọ dầu". Ông nói: "Chị hãy đi ra ngoài mượn bà con láng giềng các thứ bình, những bình rỗng, đừng có ít quá! Rồi chị trở về, chị và các con cái chị vào nhà đóng cửa lại. Chị sẽ đổ dầu vào tất cả các bình đó, bình nào đầy thì để riêng ra". Bà từ giã ông mà đi; bà và con cái bà vào nhà đóng cửa lại. Chúng đem bình đến cho bà, còn bà thì đổ vào. Khi các bình đã đầy, bà nói với con: "Đem bình nữa cho mẹ". Nhưng nó thưa: "Hết bình rồi". Dầu liền ngưng chảy.Bà đến trình cho người của Thiên Chúa biết. Ông nói: "Chị đi bán dầu ấy mà trả nợ; phần còn lại thì mẹ con dùng để sinh sống".
Câu chuyện thứ 34
ÔNG TÔ-BÍT BỊ MÙ VÀ ĐƯỢC CHỮA LÀNH
Sách Tôbia chương 1,11
Tô-bít nói với con là Tô-bi-a: "Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em chúng ta bị lưu đày ở Ni-ni-vê, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha." Tô-bi-a ra đi, tìm một người nghèo trong số các anh em chúng tôi. Khi trở về, nó nói: "Thưa cha, có một người đồng bào chúng ta đã bị giết và quăng ngoài chợ, là nơi bây giờ người ấy còn đang bị thắt cổ." Tôi liền bỏ cả ăn, chẳng kịp nếm chút gì. Tôi đem người ấy ra khỏi quảng trường và đặt trong một căn nhà nhỏ, chờ lúc mặt trời lặn sẽ đem chôn.
Khi mặt trời lặn, tôi đào huyệt chôn người ấy. Láng giềng nhạo cười tôi rằng: "Hắn vẫn còn chưa sợ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết! "
Ngay tối ấy, tôi tắm rửa, rồi đi vào sân. Tôi nằm dọc theo bức tường ở sân, mặt để trần vì trời nóng. Tôi không biết là bức tường phía trên tôi có chim sẻ. Phân chim nóng hổi rơi xuống mắt tôi, tạo ra những vết sẹo trắng. Tôi đến thầy thuốc xin chữa trị, nhưng họ càng xức thuốc cho tôi, thì các vết sẹo trắng càng làm cho mắt tôi loà thêm, cho đến khi tôi bị mù hẳn. Suốt bốn năm, mắt tôi không nhìn thấy gì cả.
Lúc bấy giờ, An-na, vợ tôi, nhận làm những công việc dành cho phụ nữ. Nàng giao hàng cho chủ và họ trả tiền công cho nàng. Ngày mồng bảy tháng Đy-trô, nàng xén tấm vải đã dệt xong, rồi giao cho chủ. Tiền công bao nhiêu, họ trả hết cho nàng, lại còn thưởng cho một con dê con để ăn một bữa. Khi nàng bước vào nhà, thì con dê bắt đầu kêu be be. Tôi mới gọi nàng lại và hỏi: "Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy? Có phải của trộm cắp không? Đem trả lại cho chủ nó đi." Nàng bảo tôi: "Đó là quà người ta thưởng cho tôi, thêm vào số tiền công!" Tôi không tin nàng và cứ bảo nàng phải trả lại cho chủ.
Khi họ gần tới Ca-xe-rin, thiên sứ Ra-pha-en nói: "Chúng ta đã để cha em ở lại trong tình trạng nào. Chúng ta hãy chạy lên trước vợ em, chuẩn bị nhà cửa, trong lúc những người kia đang tới." Cả hai người cùng đi, và thiên sứ nói: "Hãy cầm mật cá trong tay." Có con chó theo sau thiên sứ và Tô-bi-a.
Bà An-na ngồi, ngó trước ngó sau con đường mà con bà đã đi. Thấy cậu đang đến, bà bảo cha cậu: "Này con ông đang đến với người bạn đồng hành của nó! "
Thiên sứ Ra-pha-en nói với Tô-bi-a trước khi cậu đến gần cha: "Tôi biết là mắt cha em sẽ mở ra. Hãy xoa mật cá vào mắt ông. Thuốc sẽ làm cho các sẹo trắng teo lại và bay ra khỏi mắt ông. Cha em sẽ thấy lại được."
Bà An-na chạy đến ôm choàng lấy cổ con và nói: "Con ơi, mẹ lại thấy con! Từ nay, mẹ có chết cũng được!" Rồi bà khóc oà lên. Ông Tô-bít đứng lên, chân đi loạng quạng bước qua cửa sân mà ra.Tô-bi-a đi về phía ông, tay cầm mật cá; cậu thổi vào mắt ông. Cậu giữ chặt lấy ông và nói: "Thưa cha, xin cha cứ tin tưởng!" Cậu bôi thuốc cho ông và để thuốc ngấm. Rồi cậu lấy hai tay bóc vẩy ra khỏi khoé mắt ông. Ông ôm choàng lấy cổ cậu, vừa khóc vừa nói: "Con ơi, cha đã thấy con! Con là ánh sáng cho đôi mắt cha! "
Tô-bi-a hoan hỷ bước vào nhà, miệng vang lời chúc tụng Thiên Chúa. Tô-bi-a kể cho cha cậu biết là cuộc hành trình của cậu đã thành công, cậu đã mang bạc về, đã cưới vợ là cô Xa-ra như thế nào, và hiện giờ cô sắp tới, đang tiến gần đến cửa thành Ni-ni-vê.
Ông Tô-bít ra tận cửa thành Ni-ni-vê đón con dâu, vừa hoan hỷ vừa chúc tụng Thiên Chúa. Thấy ông đi đứng, di chuyển hoàn toàn vững mạnh mà không cần ai cầm tay dẫn đi, dân trong thành Ni-ni-vê đầy kinh ngạc. Trước mặt họ, ông Tô-bít xưng tụng Thiên Chúa đã xót thương và mở mắt cho ông. Rồi ông Tô-bít đến bên Xa-ra, vợ của Tô-bi-a, con ông, chúc lành cho cô và nói: "Này con, chúc con mạnh khoẻ! Chúc tụng Thiên Chúa của con, Đấng đã dẫn con đến với cha mẹ. Xin Chúa giáng phúc cho cha con, cho Tô-bi-a, cũng như cho chính con." Ngày ấy là ngày vui cho mọi người Do-thái ở Ni-ni-vê.
Câu chuyện thứ 35
BÀ GIU-ĐI-THA
Sách Giuđitha chương 8-14
Bà Giu-đi-tha là con gái ông Mơ-ra-ri. Chồng bà là ông Mơ-na-se, người cùng chi tộc và gia tộc của bà. Ông đã chết vào mùa gặt lúa. Quả thật, khi ông đang trông coi những người bó lúa ở ngoài đồng, thì bị trúng nắng và ngã bệnh liệt giường. Bà Giu-đi-tha ở goá đã được ba năm bốn tháng. Bà làm một căn phòng nhỏ trên sân thượng nhà bà; bà mặc áo vải thô và áo goá phụ. Bà ăn chay suốt thời gian ở goá, trừ các ngày sa-bát cũng như các ngày lễ ngày hội của nhà Ít-ra-en. Dung mạo bà xinh đẹp, dáng điệu thật duyên dáng. Ông Mơ-na-se, chồng bà, để lại cho bà vàng bạc, tôi tớ trai gái, súc vật và ruộng nương. Bà thừa hưởng tất cả tài sản ấy. Không một ai chê trách bà được điều gì, vì bà rất kính sợ Thiên Chúa.
Bà Giu-đi-tha nghe được những lời dân chúng ta thán chống lại vị thủ lãnh, vì tinh thần họ đã ra bạc nhược bởi thiếu nước. Bà cũng được nghe tất cả những lời ông Út-di-gia đã nói với họ và lời ông thề sẽ nộp thành cho quân Át-sua sau năm ngày cầm cự. Bà sai người nữ tỳ cai quản tất cả tài sản của bà đi mời hai vị kỳ mục của thành là các ông Kháp-rít và Khác-mít Các ông đến nhà bà.
Bà nói với các ông: "Thưa các vị thủ lãnh, xin nghe tôi nói đây. Lời các vị nói trước mặt dân hôm nay, cũng như lời các vị đã thề với Thiên Chúa đều không phải. Các vị nói là sẽ trao nộp thành cho kẻ thù, nếu trong thời gian các vị ấn định, Đức Chúa không ngoảnh lại cứu giúp chúng ta. Vậy các vị là ai mà hôm nay giám thử thách Thiên Chúa và chiếm chỗ Thiên Chúa ở giữa con cái loài người? Và giờ đây, các vị thử thách Đức Chúa toàn năng, nhưng đến muôn đời các vị cũng chẳng hiểu được gì. Quả thật, đối với các vị, tâm khảm con người đã khôn dò, suy tưởng con người đã khôn thấu, thì làm sao các vị có thể hiểu được Thiên Chúa, Đấng làm nên mọi sự, làm sao hiểu được tư tưởng và thấu suốt được dự tính của Người? Anh em đừng chọc giận Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta".
Đoạn bà Giu-đi-tha nói với họ: "Xin các vị nghe đây, tôi sẽ làm một việc, mà việc này sẽ được truyền tụng cho con cháu thuộc giống nòi chúng ta, từ thế hệ này đến thế hệ kia. Đêm nay, các vị đứng ở cổng thành; còn tôi, tôi sẽ đi ra với người nữ tỳ. Và nội trong những ngày các vị đã nói là sẽ trao nộp thành cho kẻ thù, Đức Chúa sẽ dùng tôi mà viếng thăm Ít-ra-en. Còn các vị, đừng tìm cách dò xét công việc của tôi vì tôi sẽ chẳng nói cho các vị biết, cho đến khi những việc tôi làm được hoàn tất." Ông Út-di-gia và các thủ lãnh liền nói với bà: "Chúc bà ra đi bình an và xin Đức Chúa là Thiên Chúa hằng đi trước bà để báo oán kẻ thù của chúng ta! " Rồi họ ra khỏi lều và đến vị trí của mình.
Bà Giu-đi-tha cởi tấm áo vải thô đang mặc, trút bỏ áo bà goá, lấy nước tắm rửa, xức dầu thơm hảo hạng, bới tóc chải đầu, trùm khăn lên, mặc áo sang trọng trước kia bà vẫn mặc khi ông Mơ-na-se, chồng bà, còn sống. Bà đi dép, mang kiềng, đeo xuyến, nhẫn, bông tai và tất cả các đồ trang sức. Bà trang điểm rất lộng lẫy đến nỗi bất cứ người đàn ông nào cũng phải đưa mắt nhìn bà. Bà Giu-đi-tha và người nữ tỳ đi thẳng vào thung lũng tiền đồn của quân Át-sua.
Các cận vệ của tướng Hô-lô-phéc-nê cũng như tất cả các võ quan của ông ra dẫn bà vào trong lều. Tướng Hô-lô-phéc-nê đang nằm nghỉ trên giường có giăng màn may bằng vải điều dát vàng, bích ngọc và đá quý. Khi bà Giu-đi-tha đến trước mặt ông và các võ quan của ông, thì tất cả mọi người đều sửng sốt vì nhan sắc của bà. Bà sấp mình xuống đất phủ phục trước mặt ông, nhưng thuộc hạ của ông nâng bà dậy.
Lời lẽ của bà Giu-đi-tha làm vừa lòng tướng Hô-lô-phéc-nê và các võ quan của ông. Chúng thán phục trí khôn ngoan của bà và nói: "Từ chân trời này đến chân trời kia chưa hề thấy một phụ nữ nào dung nhan kiều diễm, ngôn từ sắc sảo như thế! " Bấy giờ tướng Hô-lô-phéc-nê nói với bà: "Thiên Chúa hành động thật chí lý khi sai bà đi trước dân bà, để chúng ta nắm được thế mạnh, còn những kẻ khinh miệt chúa tể của tôi phải diệt vong. Phần bà, trông bà duyên dáng quá, lời bà nói dịu dàng biết bao. Quả thật, nếu bà làm được như bà nói, thì Thiên Chúa của bà sẽ là Thiên Chúa của tôi. Bà sẽ ở trong cung điện vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, bà sẽ lừng danh trên toàn cõi đất."
Đến ngày thứ tư, tướng Hô-lô-phéc-nê mở tiệc khoản đãi riêng các thân hữu, nhưng không mời một ai trong số các võ quan. Ông nói với hoạn quan Ba-gô-át, người trông coi tất cả tài của ông: "Ngươi hãy đi thuyết phục cô gái Híp-ri đang ở lều ngươi, đến đây ăn uống với chúng ta." Ông Ba-gô-át ra khỏi lều đến gặp bà Giu-đi-tha và nói: "Nữ tỳ xinh đẹp kia ơi, đừng ngại đến gặp chủ tướng của tôi để được ông trọng đãi, để được cùng chúng tôi hân hoan uống rượu, và để ngày hôm nay cô nương trở thành một trong số phụ nữ Át-sua được vào ở trong cung điện vua Na-bu-cô-đô-nô-xo." Bà Giu-đi-tha trả lời: "Tôi là ai mà dám cưỡng lại chủ tướng? Bất cứ điều gì người lấy làm ưa thích, tôi xin mau mắn thi hành; đó cũng là niềm vui của tôi cho đến ngày tôi nhắm mắt."
Bà trỗi dậy, trang điểm, sửa soạn xiêm y, đeo tất cả đồ trang sức. Bà Giu-đi-tha đi vào và sấp mình phục lạy. Trái tim tướng Hô-lô-phéc-nê rung động vì bà; tâm hồn ngất ngây, ông thèm khát bà. Tướng Hô-lô-phéc-nê nói với bà: "Uống đi em! Ta cùng vui đi nào!" Bà Giu-đi-tha liền nói: "Thiếp xin uống hầu chủ tướng. Quả thật đối với thiếp, từ lúc chào đời cho đến hôm nay, chưa bao giờ thiếp được vẻ vang như thế này." Rồi bà cầm lấy những của ăn thức uống người nữ tỳ đã dọn sẵn mà ăn uống trước mặt tướng Hô-lô-phéc-nê. Ông đắm đuối vì bà nên uống rất nhiều rượu; có lẽ suốt cả đời, chưa ngày nào ông uống nhiều như vậy.
Trời đã về khuya, các thuộc hạ của tướng Hô-lô-phéc-nê lui gót. Từ bên ngoài, ông Ba-gô-át đóng cửa lều lại, và đuổi khéo những người còn túc trực bên chủ tướng. Chúng đi ngủ. Tất cả đều mệt lả vì quá chén. Chỉ còn một mình bà Giu-đi-tha ở lại trong lều, và tướng Hô-lô-phéc-nê nằm sóng sượt trên giường vì say khướt. Bà Giu-đi-tha đã dặn người nữ tỳ đứng ngoài phòng ngủ của bà phải canh chừng cẩn thận lúc bà đi ra ngoài như mọi khi, vì bà nói là sẽ đi ra ngoài cầu nguyện.
Sau khi mọi người từ lớn chí bé đã rời khỏi lều của tướng Hô-lô-phéc-nê, không còn ai ở lại trong phòng ngủ nữa, thì bà Giu-đi-tha đứng bên cạnh giường của ông, thầm nghĩ trong lòng rằng: "Lạy Đức Chúa là Thiên Chúa các đạo binh. Giờ đây xin nhìn xem các việc tay con sắp làm để Giê-ru-sa-lem được tán dương ca tụng. Vì chính bây giờ là lúc Ngài củng cố phần gia nghiệp của Ngài, và thực hiện điều con đang dự tính, để đập tan quân thù nổi dậy chống chúng con."
Đoạn bà tiến đến phía đầu giường của tướng Hô-lô-phéc-nê, gỡ lấy thanh kiếm của ông, rồi lại gần giường, nắm lấy tóc ông. Bà nói: "Lạy Thiên Chúa Ít-ra-en, giờ đây xin ban sức mạnh cho con!" Bà lấy hết sức chém vào cổ ông hai nhát cho đầu lìa khỏi thân. Rồi bà lăn xác ông xuống đất. Một lát sau, bà đi ra và trao đầu tướng Hô-lô-phéc-nê cho người nữ tỳ. Cô bỏ đầu vào cái túi da đựng thức ăn; rồi cả hai cùng đi ra như thói quen vẫn làm khi đi cầu nguyện. Họ băng qua doanh trại, tiến lên núi Bai-ty-lu-a và đến cổng thành.
Từ đằng xa, bà Giu-đi-tha lên tiếng gọi những người canh cổng: "Mở cổng, mở cổng mau! Thiên Chúa chúng ta ở cùng chúng ta; Người vẫn còn biểu dương sức mạnh của Người trong Ít-ra-en và thi thố quyền năng của Người chống lại kẻ thù, như Người đã làm hôm nay!" Vừa nghe tiếng bà, dân quân trong thành vội vã chạy xuống cổng và đi mời các kỳ mục. Tất cả mọi người từ lớn chí bé ùn ùn kéo nhau đến, vì không ai ngờ rằng bà có thể trở về, họ mở cổng, nghênh đón hai người: nhóm lửa cho sáng rồi đứng vây quanh.
Anh em hãy ca ngợi Thiên Chúa! Rồi bà lôi cái đầu ra khỏi túi da cho họ thấy và nói: "Đây là đầu Hô-lô-phéc-nê, đại tướng chỉ huy quân đội Át-sua. Đức Chúa đã dùng bàn tay nhi nữ mà hạ ông ta. Thật vậy, có Đức Chúa hằng sống, Đấng đã giữ gìn tôi trên đường tôi đi, tôi xin thề: "Nhan sắc tôi đã quyến rũ ông ta, khiến ông ta phải mất mạng, mà chưa kịp phạm tội với tôi cho tôi phải nhuốc nhơ và xấu hổ."
Toàn dân hết sức kinh ngạc. Họ sấp mình thờ lạy Thiên Chúa và đồng thanh nói: "Lạy Thiên Chúa chúng con, xin chúc tụng Ngài. Hôm nay Ngài huỷ diệt kẻ thù của dân Ngài!"
Câu chuyện thứ 36
HOÀNG HẬU ÉTTE CỨU DÂN DO THÁI
Sách Étte
Năm thứ ba của triều đại vua A-suê-rô, vua mở tiệc bảy ngày trong sân hoàng cung để thết đãi dân chúng thành Su-san.
Hoàng hậu Vát-ti cũng cho dọn tiệc đãi các mệnh phụ trong hoàng cung của vua A-suê-rô. Ngày thứ bảy, trong lúc rượu làm lòng vua vui sướng, vua truyền cho bảy viên thái giám phục vụ vua phải mời hoàng hậu Vát-ti đội triều thiên hoàng hậu vào chầu vua, để dân chúng và các khanh tướng chiêm ngưỡng sắc đẹp của bà, vì bà là người có nhan sắc. Nhưng hoàng hậu Vát-ti từ chối không chịu đến. Vua rất tức giận; cơn thịnh nộ của vua bừng bừng bốc lên.
Vua nói: "Theo luật, phải xử thế nào với hoàng hậu Vát-ti, vì bà đã không tuân hành lệnh vua?" Ông Mơ-mu-khan nói trước mặt vua và các quan chức: "Hoàng hậu Vát-ti đã đắc tội không chỉ với đức vua, mà còn với tất cả các quan trong hàng quần thần và toàn thể dân chúng ở trong mọi miền thuộc quyền đức vua. Vậy nếu đẹp lòng đức vua, thì xin đức vua ban sắc chỉ, ghi vào số các luật lệ nội dung như sau: từ nay, bà Vát-ti không còn được vào chầu vua A-suê-rô nữa." Lời đề nghị đó vừa ý vua và các quan chức. Vua làm theo lời đề nghị của ông Mơ-mu-khan.
Vào năm thứ mười hai triều đại vua A-suê-rô, người ta bắt thăm trước mặt ông Ha-man để biết ngày biết tháng. Thăm rơi trúng ngày mười bốn tháng thứ mười hai, tức là tháng A-đa. Ông Ha-man thưa với vua A-suê-rô: "Trong khắp các miền thuộc vương quốc của đức vua, có một dân sống tản mác, rải rác đó đây giữa các dân. Luật lệ của chúng không giống như luật lệ của bất cứ dân nào khác. Luật lệ của đức vua, chúng chẳng tuân chẳng giữ. Quyền lợi của đức vua không cho phép để chúng yên như vậy. Nếu đẹp lòng đức vua, thì xin đức vua cho viết sắc lệnh tru diệt chúng. Thần xin cân ba trăm ngàn ký bạc trao cho công chức đem vào kho bạc của đức vua."
Bấy giờ, vua tháo bửu ấn ở tay ra trao cho cừu địch của người Do-thái là ông Ha-man. Rồi vua nói với ông Ha-man: "Ta tặng khanh số bạc đó, trao cho khanh cả dân tộc đó nữa. Khanh muốn làm gì chúng thì làm."
Sắc lệnh được soạn thảo nhân danh vua A-suê-rô và niêm phong bằng bửu ấn nhà vua. Mục đích là thủ tiêu, giết chết, tru diệt mọi người Do-thái từ trẻ đến già, cả thiếu nhi lẫn phụ nữ, nội trong một ngày. Ngoài ra, sắc lệnh còn cho phép cướp của nữa.
Khi biết tất cả những sự kiện trên, ông Moóc-đo-khai xé áo mình ra, mặc lấy bao bị và rắc tro lên người. Ông ra giữa thành, lớn tiếng thốt lên những lời đắng cay chua xót. Ông đến tận trước cung môn là nơi không ai được phép vào mà lại mặc bao bị. Trong mỗi miền, bất cứ nơi đâu mệnh lệnh và chỉ dụ của vua được chuyển tới, người ta cũng đều chứng kiến một cảnh thê lương buồn thảm: dân Do-thái ăn chay, khóc lóc, than van. Nhiều người nằm trên tro trên đất, mình mặc bao bị.
Các cung nữ và thái giám báo tin cho hoàng hậu Ét-te. Bà hết sức bàng hoàng. Bà gửi áo ra cho ông Moóc-đo-khai mặc và xin ông cởi bỏ bao bị. Ông không chịu nghe. Bà mới cho gọi ông Ha-thác là một trong những viên thái giám nhà vua đặt phục vụ bà. Bà truyền cho ông đi gặp ông Moóc-đo-khai để biết sự việc đã xảy ra và lý do của sự việc đó.
Ông Ha-thác ra gặp ông Moóc-đo-khai và ông biết tất cả những sự việc đã xảy ra và biết chuyện ông Ha-man đã hứa sẽ cân một số bạc bỏ vào kho của vua nhằm tru diệt người Do-thái. Ông Moóc-đo-khai cũng nhắn bà phải vào chầu vua để xin vua tỏ lòng nhân hậu và khẩn nài vua thương xót dân tộc bà." Ông Ha-thác trở vào, chuyển những lời này đến hoàng hậu Ét-te.
Bà Ét-te nhờ người trả lời ông Moóc-đo-khai: "Xin cha cứ đi tập hợp tất cả những người Do-thái ở Su-san lại. Xin bà con ăn chay cầu nguyện cho con. Suốt ba ngày đêm, đừng ăn uống gì cả. Con và các cung nữ cũng sẽ làm như thế. Sau đó, dầu pháp luật không cho phép, con cũng vào chầu vua. Có chết con cũng đành."
Ngày thứ ba, cầu nguyện xong, hoàng hậu Ét-te bỏ áo cầu nguyện, mặc phẩm phục huy hoàng. Đẹp lộng lẫy, bà cầu khẩn Thiên Chúa là Đấng thấu suốt và cứu độ mọi người. Rồi bà đem theo hai cung nữ: bà tựa vào một cô, trông thật thướt tha duyên dáng; còn cô kia theo sau, nâng đuôi áo cho bà. Bà hết sức xinh đẹp, đôi má tươi hồng, vẻ mặt hớn hở, dễ thương, nhưng lòng đau như thắt vì khiếp sợ. Vua ngẩng mặt lên nhìn bà, đôi mắt rực sáng, giận dữ đến cực độ. Hoàng hậu khuỵu xuống, tái mặt đi vì yếu sức; bà dựa đầu vào cô cung nữ đi trước. Thiên Chúa làm cho vua đổi lòng, khiến vua ra dịu hiền.
Từ trên ngai vàng, vua lo âu lao mình xuống, đưa cánh tay đỡ lấy bà cho đến khi bà tỉnh lại. Rồi vua lấy lời trấn an khích lệ bà: "Sao thế, Ét-te? Em không phải chết đâu! Lệnh của ta chỉ áp dụng cho thường dân thôi. Lại đây em!" Vua đưa phủ việt vàng lên đặt vào cổ bà, rồi ôm hôn bà và nói: " "Hoàng hậu Ét-te, chuyện gì thế? Khanh muốn xin gì? Dù nửa nước ta cũng sẽ ban! " Bà Ét-te đáp: "Nếu đẹp lòng đức vua, thì hôm nay, xin đức vua cùng quan Ha-man đến dự yến tiệc thiếp đã dọn hầu đức vua."
Vua liền nói: "Hãy mau mau triệu Ha-man đến để làm như Ét-te vừa nói." Vua đã cùng quan Ha-man đến dự yến tiệc bà Ét-te dọn. Giữa tiệc rượu, vua lại nói với bà Ét-te: "Khanh thỉnh cầu gì, ta sẽ ban cho. Khanh muốn xin gì, dù nửa nước cũng sẽ được." Bà Ét-te đáp: "Điều thiếp thỉnh cầu, điều thiếp muốn xin... Nếu thiếp được đức vua thương đến, nếu đức vua vui lòng ban điều thiếp muốn xin và thực hiện điều thiếp thỉnh cầu, thì ngày mai xin đức vua cùng quan Ha-man lại tới dự yến tiệc thiếp sẽ dọn hầu các ngài. Rồi thiếp sẽ tuân theo lời đức vua phán dạy."
Hôm ấy, Ha-man vui vẻ ra về, lòng phơi phới hân hoan. Nhưng khi thấy ông Moóc-đo-khai ở cung môn không buồn đứng dậy cũng chẳng thèm nhúc nhích, y hết sức căm giận ông. Ha-man dằn lòng trở về nhà, sai người đi mời bạn hữu và vợ là De-rết đến. Y kể cho họ nghe nào là y giàu có vinh hiển, nào là con cái đông đúc, nào là bao nhiêu việc vua đã làm để đề cao y và cất nhắc y lên trên hàng khanh tướng quần thần của nhà vua. Y nói: "Hơn nữa, ngoài tôi ra, hoàng hậu Ét-te đã chẳng mời ai khác cùng đức vua đến dự yến tiệc của bà. Ngày mai, bà lại mời tôi với đức vua lần nữa. Nhưng tất cả những điều đó chưa làm tôi thoả mãn, bao lâu tôi còn thấy tên Do-thái Moóc-đo-khai ngồi tại cung môn." De-rết, vợ y, và tất cả các bạn hữu của y đều nói: "Ngài cứ cho dựng một cái giá cao hai mươi lăm thước, rồi sáng mai xin đức vua cho treo cổ tên Moóc-đo-khai lên. Sau đó, ngài sẽ vui vẻ theo đức vua vào dự tiệc." Ha-man ưng thuận đề nghị đó và cho dựng giá treo cổ.
Chính đêm ấy, vua mất ngủ. Vua mới truyền đem sách Sử biên niên ra đọc. Trong sách có chép rằng: ông Moóc-đo-khai tố cáo hai viên thái giám gác cửa hoàng cung là Bi-gơ-than và Te-rét đã tìm cách tra tay hại vua A-suê-rô. Bấy giờ vua nói: "Đã làm gì để tuyên dương và đề cao Moóc-đo-khai vì công trạng đó chưa?" Gia nhân tâu lại: "Thưa đức vua, chưa làm gì cho ông ấy cả." Vua nói: "Ai ở ngoài sân đó?" Lúc ấy, Ha-man vừa đến sân ngoài của hoàng cung để xin vua cho treo cổ ông Moóc-đo-khai lên giá đã dọn sẵn cho ông.
Vua hỏi Ha-man: "Nhà vua muốn tuyên dương một người thì nên làm gì cho người đó?" Ha-man tự nhủ: "Ngoài ta ra, nào đức vua còn muốn tuyên dương ai được nữa?" Nên Ha-man mới tâu vua: "Đức vua muốn tuyên dương ai, thì ngày lễ gia miện, đức vua đã mặc long bào nào, đã cỡi con ngựa nào, nay xin đem trao cho một trong các vị cao cấp nhất của đức vua, để vị này mặc long bào ấy cho người đức vua muốn tuyên dương, rồi đặt người đó lên cỡi con ngựa ấy mà đem đi dạo trong quảng trường của thành phố. Vị này sẽ đi trước người đó và hô to: "Đây là cách đức vua đãi ngộ người đức vua muốn tuyên dương." Vua liền nói: "Khanh mau lấy long bào và ngựa như vừa nói, và làm như vậy cho ông Moóc-đo-khai, người Do-thái. Tất cả các điều khanh vừa nói, đừng bỏ sót một chi tiết nào."
Ha-man lấy long bào mặc cho ông Moóc-đo-khai, đem ngựa ra cho ông cỡi, rồi vừa dẫn đi trong quảng trường của thành phố, vừa hô to trước mặt ông: "Đây là cách đức vua đãi ngộ người đức vua muốn tuyên dương." Ông Moóc-đo-khai trở về cung môn; còn Ha-man thì tức tốc chạy về nhà, lòng buồn bã, đầu trùm khăn.
Câu chuyện còn dang dở thì các thái giám của vua đến. Họ vội vàng triệu Ha-man tới dự yến tiệc bà Ét-te đã dọn. Vua và Ha-man đến dự yến tiệc với hoàng hậu Ét-te. Ngày thứ hai này, giữa tiệc rượu, vua cũng lại nói với bà Ét-te: "Hoàng hậu Ét-te, khanh thỉnh cầu gì, ta sẽ ban. Khanh xin gì, dù nửa nước, ta cũng sẽ ban cho." Hoàng hậu Ét-te đáp: "Nếu thiếp được đức vua thương chiếu cố và nếu đẹp lòng đức vua, thì xin nhận lời thiếp khẩn cầu mà cho thiếp được sống, xin nghe lời thiếp nài van mà cho dân thiếp được sống, vì thiếp và dân của thiếp đã bị bán đứng cho người ta triệt hạ, giết chết, tru diệt. Giả như bề tôi đây có bị bán làm tôi trai tớ gái người ta, thiếp sẽ chẳng nói gì; nhưng đối phương sau này không thể bù đắp được thiệt hại mà đức vua sẽ phải chịu." Vua A-suê-rô ngỏ lời với hoàng hậu Ét-te: "Tên đó là ai? Kẻ cả gan hành động như thế hiện đang ở đâu?" Bà Ét-te thưa: "Đối phương ấy, địch thù ấy, chính là tên Ha-man khốn nạn này đây!" Trước mặt vua và hoàng hậu, Ha-man kinh hoàng sợ hãi. Vua bừng bừng nổi giận, đứng lên, bỏ tiệc rượu, đi ra ngự uyển. Còn Ha-man thì ở lại nài xin hoàng hậu Ét-te cứu sống mình, vì y quá hiểu: thảm hoạ sẽ xảy đến cho y, vua đã quyết định rồi.
Khi vua từ ngự uyển trở lại phòng tiệc rượu thì Ha-man đã nằm vật xuống giường, bên cạnh bà Ét-te. Vua nói: "Lại còn tính xâm phạm đến cả hoàng hậu tại hoàng cung, ngay khi ta có mặt hay sao?" Vua vừa nói xong, người ta liền lấy khăn che mặt Ha-man lại. Một trong các thái giám là ông Khác-vô-na nói trước mặt vua: "Kìa, sẵn có cái giá Ha-man dựng lên để treo cổ ông Moóc-đo-khai. Chính nhờ lời báo cáo của ông này mà đức vua đã thoát nạn. Cái giá đó cao hai mươi lăm thước, dựng ngay tại nhà Ha-man." Vua liền nói: "Treo cổ y lên đó!" Ha-man bị treo cổ lên cái giá dành sẵn cho ông Moóc-đo-khai. Thế là nhà vua hả giận. Ngày hôm ấy, vua A-suê-rô ban cho hoàng hậu Ét-te tài sản của Ha-man. Vua hạ Sắc chỉ phục hồi quyền của người Do-thái.
Câu chuyện thứ 37
CUỘC TỬ ĐẠO CỦA 7 ANH EM
Sách Macabbê chương 7
Có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm. Thay mặt cho anh em mình, một người lên tiếng nói: "Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì? Vua muốn biết điều gì? Chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi." Vua tức giận, ra lệnh nung một cái chảo lớn. Nung xong, vua liền ra lệnh cắt lưỡi người vừa nói thay cho anh em, lột da đầu và chặt cụt chân tay của anh ngay trước mắt các anh em và bà mẹ. Chặt chân tay anh rồi, vua truyền lệnh đưa anh còn đang thở thoi thóp đến lò lửa mà nướng. Khi khói trong chảo bốc lên, lan tỏa ra xa, bà mẹ và các anh em khích lệ nhau chết cho anh dũng. Họ nói: "Đức Chúa là Thiên Chúa, Người thấy rõ, và chắc chắn người dủ lòng thương chúng ta, như lời ông Mô-sê nói trong bài ca của ông, để làm chứng cho mọi người rằng: "Đức Chúa sẽ dủ lòng thương hàng tôi tớ."
Người thứ nhất bị giết như thế rồi, chúng điệu người thứ hai đến chỗ hành hình. Sau khi lột da đầu và tóc của anh, chúng hỏi: "Mày có muốn ăn trước khi thân xác bị chặt ra từng mảnh không? " Nhưng anh dùng tiếng mẹ đẻ trả lời rằng: "Không." Vì thế, anh liền phải chịu các cực hình y như người thứ nhất. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh nói: "Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời."
Sau người này, đến lượt người thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu anh liền thè lưỡi, can đảm đưa tay ra, và khẳng khái nói: "Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được." Nhà vua và quần thần phải sửng sốt vì lòng can đảm của người thanh niên đã dám coi thường đau khổ.
Người này chết rồi, người ta cũng tra tấn hành hạ người thứ tư như vậy. Khi sắp tắt thở, anh nói như sau: "Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu."
Sau đó, người ta điệu người thứ năm ra hành hạ. Anh nhìn thẳng vào vua và nói: "Dù vua thuộc loài hư nát, vua lại có quyền trên người ta, vua muốn làm gì thì làm. Nhưng vua đừng tưởng Thiên Chúa đã bỏ rơi giống nòi chúng tôi. Còn vua, hãy kiên nhẫn mà ngắm nhìn quyền năng cao cả của Người, xem Người sẽ hành tội vua và dòng giống vua thế nào?"
Sau người này, người ta điệu người thứ sáu đến. Khi sắp chết anh nói: "Vua đừng có lừa dối mình mà chi! Quả thật, chúng tôi phải chịu cực hình như thế này cũng là tại chúng tôi, vì chúng tôi đắc tội với Thiên Chúa, nên mới gặp phải những điều quái gở này. Còn vua, đừng tưởng rằng vua sẽ không bị trừng phạt, vì vua đã dám đứng lên chống lại Thiên Chúa."
Bà mẹ là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Đức Chúa. Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các con: "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. Chính Đấng Tạo Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài. Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống, bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình."
Vua An-ti-ô-khô cho là người mẹ sỉ nhục mình nhưng vẫn khinh thường những lời mạt sát đó. Bởi vậy chẳng những vua khuyên người con trai út còn sống sót, mà lại thề hứa làm cho anh được giàu sang hạnh phúc, nếu anh bỏ tục lệ của tổ tiên. Ngoài ra, vua còn coi anh là bạn hữu và trao cho anh những chức vụ quan trọng. Nhưng vì người thiếu niên không thèm để ý gì tới, nên vua mới cho gọi bà mẹ đến và nhờ bà khuyên nhủ hầu cứu mạng cho anh. Vua phải mất nhiều lời bà mới bằng lòng thuyết phục người con. Nghiêng mình về phía anh, bà chế nhạo tên bạo chúa và dùng tiếng mẹ đẻ nói với anh những lời sau đây: "Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. Con đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho mẹ."
Bà vừa dứt lời thì người thiếu niên nói: "Các người còn chờ đợi gì nữa, tôi chẳng nghe theo lệnh vua đâu, nhưng tôi chỉ vâng theo lệnh của Lề Luật Thiên Chúa đã ban cho cha ông chúng tôi qua ông Mô-sê. Còn vua, hỡi kẻ vô đạo và đê tiện nhất trong loài người, vua đừng có tự cao mà nuôi những hy vọng viễn vông, và đang tay hành hạ các tôi tớ Chúa Trời. Vì vua sẽ không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa toàn năng, là Đấng thấu suốt mọi sự. Còn các anh của chúng tôi, sau khi đã chịu cực hình trong giây lát vì lòng trung thành với Giao Ước của Thiên Chúa thì giờ đây đang được hưởng sự sống đời đời."
Bấy giờ, vua nổi giận và phải ngậm đắng nuốt cay vì những lời lăng nhục ấy, nên đã trừng trị anh tàn bạo hơn những người khác. Vậy anh đã chết mà vẫn hoàn toàn trong sạch và một niềm tin cậy vào Đức Chúa. Sau cùng bà mẹ cũng đã chết theo các con.
Câu chuyện thứ 38
ÔNG GIÓP
Sách Gióp
Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Đông.
Vậy một ngày kia, các con cái Thiên Chúa đến trình diện Thiên Chúa; Xa-tan cũng đến trong đám họ. Bấy giờ Thiên Chúa phán với Xa-tan: "Ngươi từ đâu tới? " Xa-tan thưa với Thiên Chúa: "Rảo quanh cõi đất và lang thang khắp đó đây." Thiên Chúa phán với Xa-tan: "Ngươi có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác! " Nhưng Xa-tan thưa lại với Thiên Chúa: "Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không cầu lợi chăng? Chẳng phải chính Ngài đã bao bọc, chở che nó tư bề, nó cũng như nhà cửa và tài sản của nó sao? Ngài đã ban phúc lành cho công việc do tay nó làm, và các đàn súc vật của nó lan tràn khắp xứ. Ngài cứ thử giơ tay đánh vào mọi tài sản của nó xem, chắc chắn là nó nguyền rủa Ngài thẳng mặt!" Thiên Chúa phán với Xa-tan: "Được, mọi tài sản của nó thuộc quyền ngươi, duy chỉ có con người của nó là ngươi không được đưa tay đụng tới." Rồi Xa-tan rút lui khỏi nhan Thiên Chúa.
Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: "Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: "Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: "Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: "Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay."
Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: "Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ,tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Thiên Chúa đã ban cho, Thiên Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Thiên Chúa!"
Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa. Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi. Bấy giờ, vợ ông bảo: "Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi! " Nhưng ông Gióp đáp lại: "Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?" Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không để cho môi miệng thốt ra lời tội lỗi.
Thiên Chúa đoái nhìn đến ông Gióp. Thiên Chúa đã khôi phục tài sản cho ông Gióp. Thiên Chúa đã tăng gấp đôi những gì ông Gióp đã có trước kia. Tất cả anh em, chị em ông, tất cả bạn bè cũ lại tìm đến ông; họ đã cùng ăn bánh trong nhà của ông. Thiên Chúa giáng phúc cho những năm cuối đời của ông Gióp nhiều hơn trước kia. Ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò và một ngàn lừa cái. Ông sinh được bảy con trai và ba con gái. Trong khắp xứ, người ta không sao tìm được những thiếu nữ xinh đẹp như con gái ông Gióp. Cha của các cô đã chia gia tài cho các cô như cho các anh em trai. Ông Gióp đã qua đời và tuổi thọ của ông rất cao.
Câu chuyện thứ 39
TIÊN TRI I-SA-IA
Sách Isaia
Dân Is-ra-en sống trong bóng tối, lầm lạc và tội lỗi. Họ đã phản nghịch cùng Thiên Chúa là Chúa các đạo binh. Có một nhà tiên tri của Thiên Chúa xuất hiện, người ấy tên là Isaia. Ông đến để báo trước sự trừng phạt của Thiên Chúa trên toàn cõi Is-ra-en và thế giới. Ông nói Thiên Chúa sẽ không để những tội lỗi của thế gian lan tràn mà không bị trừng phạt.
Ông kêu gọi hãy thanh tẩy lòng trí, Hãy ngưng lối sống tội lỗi, ăn năn trở về với Thiên Chúa và hãy trở thành một dân tộc thánh thiện.
Isaia cũng loan báo về một Hài Nhi sẽ sinh ra. Đó là Giêsu, người sẽ mang ơn cứu độ đến cho trần gian. Người sẽ bị kết án và chết trên thập giá khổ hình.
Đây là lời tiên báo về ơn cứu độ:
Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.
Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an.
Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình.
Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Thiên Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.
Câu chuyện thứ 40
TIÊN TRI GIÊRÊMIA VÀ NGƯỜI THỢ GỐM
Sách Giêrêmia chương 18
Có lời Thiên Chúa phán với ông Giê-rê-mi-a rằng: "Ngươi hãy trỗi dậy và xuống nhà thợ gốm, ở đó Ta sẽ cho ngươi nghe lời Ta." Tôi xuống nhà thợ gốm, và này anh ta đang sử dụng chiếc bàn xoay hai bánh. Nhưng chiếc bình anh đang nắn bị hỏng, như có lúc xảy ra khi thợ gốm nặn đất sét. Anh làm lại một chiếc khác đúng như anh thấy cần phải làm.
Bấy giờ có lời Thiên Chúa phán với tôi rằng: "Hỡi nhà Ít-ra-en, đối với các ngươi, Ta lại không thể làm được như người thợ gốm này hay sao? Này hỡi nhà Ít-ra-en, đất sét ở trong tay người thợ gốm thế nào, các ngươi ở trong tay Ta cũng như vậy. Có khi Ta bày tỏ ý định sẽ nhổ, sẽ lật, sẽ diệt một dân tộc hay một vương quốc, nhưng nếu dân tộc ấy trở lại, bỏ sự dữ đã khiến Ta quyết định trừng phạt nó, thì Ta sẽ hối tiếc về tai hoạ Ta định giáng cho nó. Có khi Ta bày tỏ ý định sẽ xây, sẽ trồng một dân tộc hay một vương quốc, nhưng nếu dân tộc ấy làm điều dữ trái mắt Ta, không chịu nghe theo tiếng Ta,
Ta sẽ hối tiếc về phúc lành Ta định ban cho nó. Và bây giờ, ngươi hãy nói với người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem rằng: Thiên Chúa phán như sau: Này chính Ta đang tạo ra tai hoạ nhằm trừng phạt các ngươi, đang tính kế chống các ngươi. Vậy hãy mau trở lại, ai nấy phải từ bỏ con đường gian ác; hãy làm cho cách sống và công việc của mình tốt hơn. Nhưng chúng sẽ nói: "Vô ích! Chúng tôi sẽ theo ý định của chúng tôi, và mỗi người cứ cố chấp theo lòng dạ xấu xa của mình."
Câu chuyện thứ 41
NHỮNG BỘ XƯƠNG KHÔ
Sách Êdêkien chương 37
Tay Thiên Chúa đặt trên tôi. Thiên Chúa dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng ấy đầy những bộ xương khô. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét.
Người bảo tôi: "Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?" Tôi thưa: "Lạy Thiên Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó." Bấy giờ, Người bảo tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Thiên Chúa. Thiên Chúa là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy: Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ hồi sinh. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Thiên Chúa."
Tôi đã tuyên sấm như tôi được lệnh. Vậy có tiếng động khi tôi đang tuyên sấm; có sự rung chuyển và các xương xích lại gần, ăn khớp với nhau. Tôi nhìn thì thấy trên chúng đã có gân; thịt đã mọc lên và da đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí chưa có ở nơi chúng.
Người lại bảo tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi, hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần khí: Thiên Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh." Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.
Bấy giờ, Người phán với tôi: Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en. Này chúng vẫn nói: "Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời!" Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với chúng: Thiên Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất Ít-ra-en. Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Thiên Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Thiên Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Đó là sấm ngôn của Thiên Chúa.
Câu chuyện thứ 42
ĐANIEN TRONG HẦM SƯ TỬ
Sách Danien chương 6
Vua Đa-ri-ô quyết định đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc dưới quyền ba tể tướng trong đó có ông Đa-ni-en. Họ phải phúc trình mọi việc cho ba vị này. Ông Đa-ni-en này vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có Thiên Chúa ở với ông, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Đa-ni-en để tâu với vua. Nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Đa-ni-en vốn là người trung tín.
Vì thế, họ nói với nhau: "Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Đa-ni-en này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y." Bấy giờ họ kéo nhau đến gặp vua và tâu rằng: "Đức vua Đa-ri-ô, vạn vạn tuế! Tất cả các vị tể tướng của vương quốc, các thủ lãnh, thống đốc, cận thần và tổng trấn đều nhất trí xin đức vua ra sắc chỉ sau đây: Trong 30 ngày sắp tới, bất cứ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua. thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử. Bấy giờ, xin đức vua ký ban hành lệnh cấm". Vua nghe thấy có lý đã phê chuẩn.
Khi biết lệnh cấm được vua chấp thuận, ông Đa-ni-en về nhà buồn bã. Cửa sổ phòng trên nhà ông quay về hướng Giê-ru-sa-lem. Mỗi ngày 3 lần, ông quỳ gối, cầu nguyện và ngợi khen Thiên Chúa của ông, y như ông đã làm từ trước đến nay. Bấy giờ những người ấy đổ xô lại và bắt gặp ông Đa-ni-en đang cầu nguyện và thống thiết nài van Thiên Chúa của ông.
Họ tới gặp vua và nhắc đến lệnh cấm của vua: "Đức vua đã chẳng châu phê lệnh cấm đó sao? Theo lệnh cấm này, trong 30 ngày sắp tới, bất cứ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử." Vua đáp lại rằng: "Đúng vậy, chiếu theo luật không thể huỷ bỏ." Bấy giờ họ thưa với vua rằng: "Tâu đức vua, trong đám dân Giu-đa lưu đày, có tên Đa-ni-en không đếm xỉa gì tới đức vua cũng như tới giới lệnh đức vua đã châu phê. Ngày nào y cũng cầu nguyện đến ba lần."
Nghe lời ấy, vua rất đau lòng và để tâm tìm cách cứu ông Đa-ni-en. Vua cố sức giải cứu ông Đa-ni-en mãi cho đến lúc mặt trời lặn. Bấy giờ những người kia lại kéo nhau đến gặp vua và tâu rằng: "Tâu đức vua, xin đức vua biết rằng mọi giới lệnh và sắc chỉ nhà vua đã ban đều bất di bất dịch."
Bấy giờ vua đành hạ lệnh, và người ta đưa ông Đa-ni-en đi quăng vào hầm sư tử. Vua lên tiếng nói với ông Đa-ni-en: "Vị thần mà ngươi bền lòng phụng sự, chính vị ấy sẽ cứu ngươi! " Người ta đem một phiến đá tới đặt trên miệng hầm. Vua lấy ấn của mình và ấn của các đại thần niêm phiến đá lại để không còn thay đổi gì được nữa về vụ ông Đa-ni-en.
Rồi vua về cung, suốt đêm không ăn không uống, cũng chẳng cho các cung phi vào hầu. Vua không tài nào chợp mắt được. Sáng sớm tinh sương, vua đã trỗi dậy, vội vã đi ra hầm sư tử. Vừa tới gần, vua cất giọng đau đớn gọi vọng xuống ông Đa-ni-en. Vua lên tiếng nói với ông rằng: "Hỡi Đa-ni-en, người tôi tớ của Thần hằng sống, vị Thần mà ngươi bền lòng phụng sự, có cứu được ngươi thoát hàm sư tử không?"
Bấy giờ ông Đa-ni-en đáp lại: "Hoàng thượng, vạn vạn tuế! Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến khoá hàm sư tử khiến chúng không hại được thần, bởi vì trước mặt Người, thần đã được nhìn nhận là vô tội, và, tâu đức vua, ngay trước nhan ngài, thần cũng chẳng làm điều gì ác." Lúc ấy, vua rất vui mừng, truyền kéo ông Đa-ni-en lên khỏi hầm. Và ông được kéo lên, không một vết thương trên mình, bởi vì ông đã tin cậy vào Thiên Chúa của ông.
Vua liền truyền điệu những người kia đến, họ là những kẻ đã vu khống cho ông Đa-ni-en; rồi vua ra lệnh quăng họ cùng với vợ con vào hầm sư tử. Những người này chưa đụng tới nền hầm, thì sư tử đã vồ lấy chúng mà nghiền nát xương.
Câu chuyện thứ 43
BÀ SU-SAN-NA VÀ PHÁN QUYẾT KHÔN NGOAN CỦA ĐA-NI-EN
Sách Đanien chương 13
Có một người ở tại Ba-by-lon, tên là Giô-gia-kim. Ông lấy bà Su-san-na rất xinh đẹp và kính sợ Thiên Chúa. Cha mẹ bà là người công chính, đã dạy dỗ con gái theo Luật Mô-sê. Ông Giô-gia-kim cha bà là người rất giàu, ông có một khu vườn bên cạnh nhà. Người Do-thái thường hay đến nhà ông, vì ông có thế giá hơn mọi người.
Năm ấy, người ta đặt hai kỳ mục chọn trong dân làm thẩm phán. Thiên Chúa đã phán về họ rằng: "Từ Ba-by-lon, đã phát xuất những thẩm phán gian tà xét xử dân." Những kỳ mục này thường lui tới nhà ông Giô-gia-kim. Tất cả những ai có việc gì cần xét xử đều phải đến gặp họ.
Giữa trưa, khi dân đã rút lui, bà Su-san-na vào dạo trong vườn của chồng. Hai kỳ mục để ý thấy bà mỗi ngày vào đi dạo, thì có ước muốn xấu với bà. Họ để tâm trí ra hư hỏng, chẳng nhớ đến những phán quyết công minh của Thiên Chúa. Cả hai người đều đắm đuối say mê bà, nhưng họ không cho nhau biết điều đó, vì xấu hổ với tư tưởng xấu.
Ngày ngày, họ rình rập, mong nhìn thấy bà. Một hôm, họ nói với nhau: "Đến giờ ăn trưa rồi, ta đi về nhà thôi!" Thế rồi họ chia tay. Nhưng liền sau đó, ông nào cũng trở lui và cả hai lại gặp nhau ở chỗ cũ. Khi họ hỏi nhau, họ mới thú nhận lòng ham muốn của mình. Bấy giờ họ đồng lòng tìm cơ hội gặp bà lúc bà ở một mình thì hành động. Họ đang nóng lòng chờ dịp thuận lợi, thì bà Su-san-na đi vào vườn như các ngày trước với hai đầy tớ gái theo hầu.
Vì trời nóng, bà muốn tắm trong vườn. Ở đó, chẳng có ai, ngoại trừ hai kỳ mục đang ẩn núp và rình xem. Bà bảo các đầy tớ gái: "Đem cho ta dầu và thuốc thơm, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm." Các tớ gái làm như bà nói: các cô đóng cửa lại, đi ra phía cửa hông để lấy những thứ bà yêu cầu. Nhưng các cô không biết là các kỳ mục đang ẩn núp trong vườn.v Các cô vừa ra khỏi đó, thì hai kỳ lão liền chồm dậy, nhảy tới chỗ bà và nói: "Này cửa vườn đã đóng; chẳng ai thấy chúng ta đâu. Chúng tôi thèm muốn bà, bằng lòng trao thân cho chúng tôi đi! Nếu không, chúng tôi sẽ la to tố cáo rằng có một thanh niên ở với bà, và vì thế bà đã cho các đầy tớ gái đi khỏi đây."
Bà Su-san-na thở dài đau lòng và nói: "Tôi bị dồn vào góc tường! Nếu làm thế, tôi sẽ phải chết; còn nếu không làm, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà không làm gì cả mà sa vào tay các ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa!" Bà Su-san-na liền kêu lớn tiếng và hai kỳ lão cũng la lên để hại bà. Một ông chạy ra mở cửa vườn. Khi nghe tiếng kêu trong vườn, các gia nhân đổ xô vào cửa bên hông, để xem sự gì đã xảy ra cho bà. Và sau khi các kỳ lão kể lại chuyện đó, các tôi tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì chưa họ nghĩ bà Su-san-na rất trong sạch.
Hôm sau, dân chúng tụ họp ở nhà ông Giô-gia-kim chồng bà. Hai kỳ lão kia cũng đến đó, lòng đầy gian ý hại bà, để khiến bà phải chết. Họ nói với dân chúng: "Hãy sai người đi tìm bà Su-san-na." Người ta đi tìm bà. Bà đến đó với cha mẹ, con cái và tất cả thân nhân. Bà Su-san-na rất là duyên dáng, nhan sắc mặn mà. Vì bà che khăn, nên các tên gian ác đó bắt phải lột khăn ra để ngắm nhan sắc của bà cho đã mắt.
Mọi người thân cũng như tất cả những ai thấy bà, đều khóc. Từ giữa đám dân, hai kỳ lão đó đứng dậy đặt tay lên đầu bà. Còn bà thì vừa khóc vừa ngước mắt lên trời trông cậy vào Chúa. Các kỳ lão nói: "Chúng tôi đang dạo chơi một mình trong vườn, thì mụ này đã vào với hai tớ gái, đóng cửa vườn lại, rồi cho các tớ gái đi ra. Một gã thanh niên núp sẵn ở đó, đến bên mụ và nằm với mụ. Lúc ấy, chúng tôi đang ở một góc vườn, thấy chuyện đồi bại, liền chạy tới. Chúng tôi thấy chúng ăn nằm với nhau, nhưng không bắt được gã thanh niên, vì hắn khoẻ hơn chúng tôi, và đã mở cửa chạy mất. Còn mụ này, chúng tôi bắt được và hỏi mụ ta xem gã thanh niên kia là ai. Nhưng mụ không chịu nói cho chúng tôi. Chúng tôi xin làm chứng về những điều ấy."
Bà Su-san-na kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Đấng hiểu biết những điều bí ẩn và thấy hết mọi sự trước khi xảy ra, Ngài biết là họ đã làm chứng gian hại con. Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì như họ đã vu cáo cho con."
Chúa đã nghe tiếng bà kêu than. Trong lúc bà bị điệu đi hành hình, Thiên Chúa đã đánh động tâm trí thánh thiện một thiếu niên Đa-ni-en. Đa-ni-en đó kêu lớn tiếng rằng: "Tôi vô can trong vụ đổ máu người phụ nữ này!" Toàn dân đều quay về phía cậu thiếu niên và hỏi: "Lời cậu vừa nói có nghĩa gì?" Cậu đứng giữa họ và nói: "Các người ngu xuẩn đến thế sao, hỡi con cái Ít-ra-en? Các người đã lên án một người con gái mà không xét hỏi và cũng không biết rõ sự việc ra sao! Hãy trở lại nơi xét xử, vì những người kia đã làm chứng gian để hại người phụ nữ này."
Toàn dân vội vàng trở lại đó, và các kỳ mục nói với Đa-ni-en: "Đến đây, hãy ngồi giữa chúng tôi và cho chúng tôi biết ý kiến, vì Thiên Chúa đã cho cậu được khôn ngoan như bậc lão thành." Đa-ni-en nói: "Hãy tách riêng họ ra, rồi tôi sẽ xét hỏi." Sau khi họ đã bị tách ra rồi, Đa-ni-en gọi một trong hai kỳ mục lại và nói: "Hỡi con người già đời trong đường gian ác, tội lỗi xưa ông đã phạm, nay lại tái diễn: ông đã xử bất công, kết án người vô can, tha bổng kẻ đắc tội, bất kể lời Chúa dạy: "Ngươi chớ giết người vô tội và người công chính. Vậy nếu quả thật ông đã thấy bà kia, thì hãy nói ông đã thấy họ ăn nằm với nhau dưới cây nào? " Người ấy đáp: "Dưới cây trắc." Đa-ni-en nói: "Ông đã nói dối trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên Chúa đã nhận được án lệnh chặt ông làm đôi."
Sau khi đưa người này ra, Đa-ni-en truyền dẫn người kia vào, rồi nói: "Hỡi nòi giống Ca-na-an, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho ông ra hư hỏng. Các ông đã hành động như thế với các con gái Ít-ra-en. Nhưng người con gái Giu-đa này đã không chịu nổi sự gian tà của các ông. Vậy hãy nói cho tôi biết ông đã bắt quả tang họ ăn nằm với nhau dưới cây nào?" Người ấy đáp: "Dưới cây dẻ." Đa-ni-en nói: "Cả ông nữa, ông cũng nói dối trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên Chúa, tay cầm gươm, đang chờ để xẻ ông làm đôi."
Bấy giờ toàn thể cộng đồng lớn tiếng reo hò và chúc tụng Thiên Chúa, Đấng cứu những kẻ vô tội tin tường vào Người. Rồi người ta kết án hai kỳ lão, vì Đa-ni-en đã dựa vào lời chính miệng các ông nói mà thuyết phục họ là các ông đã làm chứng gian. Người ta giáng cho các ông hình phạt mà các ông định bắt người khác phải chịu.
Ngày ấy, máu người vô tội khỏi bị đổ oan. Vợ chồng và gia đình ông Khen-ki-gia và mọi người thân đều ca ngợi Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cứu giúp người công chính. Từ ngày ấy trở đi, cậu Đa-ni-en nên cao trọng trước mặt dân.
Câu chuyện thứ 44
GIÔ-NA TRONG BỤNG CÁ
Sách Giôna
Có lời Thiên Chúa phán với ông Giô-na rằng: "Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta." Ông Giô-na đứng dậy để trốn đi Tác-sít, tránh mặt Thiên Chúa. Ông xuống Gia-phô và tìm được một chiếc tàu sắp đi Tác-sít. Ông xuống tàu để cùng đi Tác-sít với họ, tránh nhan Thiên Chúa.
Nhưng Thiên Chúa cho thổi một cơn gió to trên biển và liền có một trận bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. Thuỷ thủ sợ hãi; họ kêu cứu, mỗi người kêu lên thần của mình và ném hàng hoá trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt. Còn ông Giô-na thì đã xuống hầm tàu, nằm đó và ngủ say. Viên thuyền trưởng lại gần và nói với ông: "Sao lại ngủ thế này? Dậy! Kêu cầu thần của ông đi! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng."
Rồi họ bảo nhau: "Nào, chúng ta hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp tai hoạ này." Họ gieo quẻ và quẻ rơi trúng ông Giô-na. Họ bảo ông: "Vì ông là người đã đem tai hoạ này đến cho chúng ta, thì xin ông cho chúng tôi biết: Ông làm nghề gì? Ông từ đâu đến, quê ở nước nào, và thuộc dân nào? " Ông nói với họ: "Tôi là người Híp-ri, Đấng tôi kính sợ là Thiên Chúa, Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền."
Những người ấy sợ lắm; họ nói với ông: "Ông đã làm gì thế? " Nhờ ông kể lại mà họ được biết là ông đang trốn đi để tránh nhan Thiên Chúa. Họ hỏi ông: "Chúng tôi phải xử với ông thế nào để cho biển lặng đi, không còn đe doạ chúng tôi nữa? " Quả thật, biển càng lúc càng động mạnh. Ông bảo họ: "Hãy đem tôi ném xuống biển thì biển sẽ lặng đi, không còn đe doạ các ông nữa; vì tôi biết là tại tôi mà các ông gặp cơn bão lớn này."
Những người ấy cố chèo vào đất liền, nhưng không thể được vì biển mỗi lúc một động thêm, uy hiếp họ. Họ kêu cầu Thiên Chúa và thưa: "Ôi, lạy Thiên Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu vô tội trên đầu chúng con; vì lạy Thiên Chúa, chính Ngài đã hành động tuỳ theo sở thích." Rồi họ đem ông Giô-na ném xuống biển. Biển dừng cơn giận dữ. Những người ấy sợ Thiên Chúa, sợ lắm; họ dâng hy lễ lên Thiên Chúa và khấn hứa.
Thiên Chúa cho một con cá voi lớn bơi tới nuốt ông Giô-na. Ông Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Từ trong bụng cá, ông Giô-na cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Ngày thứ 3, Thiên Chúa cho con cá phun ông Giô-na ra khỏi bụng lên đất liền.
Thiên Chúa phán với ông Giô-na lần thứ hai rằng: "Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi." Ông Giô-na đứng dậy và đi Ni-ni-vê, như lời Thiên Chúa phán.
Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. Ông Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: "Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ." Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Tin báo đến cho vua Ni-ni-vê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro. Vua cho rao tại Ni-ni-vê: "Do sắc chỉ của đức vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không được nếm bất cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước. Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. Biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh nộ, khiến chúng ta khỏi phải chết." Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.
Câu chuyện thứ 45
TÁI THIẾT ĐỀN THỜ THIÊN CHÚA
Sách Khác-gai
Năm thứ hai dưới đời vua Đa-ri-ô, Thiên Chúa phán qua trung gian ngôn sứ Khác-gai, như sau: Dân đó dám nói: "Bây giờ chưa phải là lúc tái thiết Đền Thờ kính Thiên Chúa." Nhưng Thiên Chúa phán: "Bây giờ có phải là lúc để các ngươi trong nhà có gỗ đóng trần, còn Đền Thờ thì lại hoang tàn đổ nát không?"
Vậy Thiên Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Các ngươi gieo vãi nhiều, nhưng thu hoạch chẳng bao nhiêu. Các ngươi ăn mà không đủ no, uống không đủ say, mặc không đủ ấm. Đồng lương của người làm thuê lọt qua túi thủng. Thiên Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Hãy lên núi chặt cây, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta. Ta sẽ vui thích và tỏ vinh quang Ta ở đó.
Các ngươi mong đợi nhiều, nhưng mùa màng chẳng được bao nhiêu. Các ngươi có đem được những thứ đó về nhà, Ta cũng sẽ thổi bay đi hết. Vì Nhà của Ta vẫn còn tan hoang đổ nát, trong khi các ngươi ai nấy bận rộn lo cho nhà riêng của mình. Bởi thế, trời đã không nhỏ sương xuống cho các ngươi và đất cũng không sinh hoa màu. Ta đã khiến cho đất đai, núi non, lúa mì, rượu mới, dầu tươi và tất cả hoa màu ruộng đất cũng như người, đàn vật và mọi công trình vất vả phải héo khô cằn cỗi."
Bấy giờ, ông Dơ-rúp-ba-ven và tất cả những người còn sót lại trong dân đã vâng nghe tiếng Thiên Chúa, và nghe lời ngôn sứ Khác-gai theo lệnh Thiên Chúa truyền cho ông. Dân tỏ ra kính sợ Thiên Chúa. Ông Khác-gai, sứ giả của Thiên Chúa, đã nói với dân lời nhắn gửi Thiên Chúa như sau: "Chính Ta, Ta sẽ ở với các ngươi" Thiên Chúa tác động thần trí tổng đốc xứ Giu-đa là Dơ-rúp-ba-ven, và thần trí thượng tế Giê-su-a, cũng như thần trí tất cả những người còn sót lại trong dân. Họ đã đến xây Đền Thờ Thiên Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của họ.
Tháng bảy Thiên Chúa lại phán qua ngôn sứ Khác-gai rằng: "Ai trong các ngươi trong số người còn sót lại đã từng được chứng kiến cảnh rực rỡ vinh quang của Đền Thờ lúc ban đầu? Vậy bây giờ các ngươi thấy Đền Thờ như thế nào? Trước mắt các ngươi, nó chẳng còn là gì nữa sao? Hỡi Dơ-rúp-ba-ven, hãy mạnh bạo lên! Này thượng tế Giê-su-a, mạnh bạo lên nào! Toàn dân trong xứ hãy mạnh bạo lên! Hãy bắt tay vào việc, vì chính Ta ở với các ngươi. Sấm ngôn của Thiên Chúa các đạo binh.
Chiếu theo lời giao ước với các ngươi lúc các ngươi ra khỏi Ai-cập, thần khí Ta ở giữa các ngươi; các ngươi đừng sợ. Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi, Ta sẽ làm rung chuyển trời cao, biển khơi và đất liền. Ta sẽ làm cho tất cả các dân tộc phải chấn động và các kho tàng của các dân tộc sẽ đổ về, rồi Ta sẽ làm cho Đền Thờ này rực rỡ vinh quang. Bạc là của Ta, vàng là của Ta - sấm ngôn của Thiên Chúa các đạo binh. "Vinh quang của Đền Thờ lúc này sẽ rạng ngời hơn khi trước; tại nơi này Ta sẽ ban tặng bình an". Thiên Chúa các đạo binh phán như thế.